Hàng ngang bao nhiêu bậc thì được lấy nhau năm 2024

Nếu được thì tụi em phải đăng ký kết hôn ở đâu và phải cần những gì, thủ tục như thế nào mới đầy đủ? Hộ khẩu của em ở thành phố, còn cô ấy thì ở tỉnh. Có phải sau khi đăng ký kết hôn thì tụi em là vợ chồng hợp pháp phải không? (Em và cô ấy đã đủ tuổi kết hôn và không có vấn đề gì trở ngại ngoài việc gia đình 2 bên ngăn cản). chieuhien09@...

Trả lời:

Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình thì những người có họ trong phạm vi ba đời là những người cùng một gốc sinh ra: cha mẹ là đời thứ nhất; anh chị em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha là đời thứ hai; anh chị em con chú con bác, con cô con cậu, con dì là đời thứ ba;

Theo cách tính như trên thì hai bạn là người có họ thuộc đời thứ 4, cụ thể như sau: hai cụ thân sinh ra bà ngoại của bạn và ông nội cô ấy là đời thứ nhất, bà ngoại của bạn và ông nội cô ấy là đời thứ hai, cha mẹ bạn, và cha mẹ cô ấy là đời thứ ba, tiếp theo, bạn và cô ấy là đời thứ tư.

Nếu bạn và cô ấy đã đủ tuổi đăng ký kết hôn và không thuộc trường hợp cấm kết hôn (Người đang có vợ hoặc có chồng; Người mất năng lực hành vi dân sự; Giữa những người cùng dòng máu trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi 3 đời; Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa những người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng; Giữa những người cùng giới tính) thì hai bạn hoàn được phép kết hôn với nhau mà không ai có quyền ngăn cản.

Theo quy định của pháp luật thì Nam và Nữ khi đã đăng ký kết hôn theo đúng quy định pháp luật thì được pháp luật công nhận là vợ chồng.

Theo quy định của Nghị định 158/2005/NĐ-CP về quản lý hộ tịch thì Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú của bên nam hoặc bên nữ thực hiện việc đăng ký kết hôn; Trong trường hợp cả hai bên nam, nữ là công dân Việt Nam đang trong thời hạn công tác, học tập lao động ở nước ngoài về nước đăng ký kết hôn, đã cắt hộ khẩu thường trú ở trong nước, thì việc đăng ký kết hôn được thực hiện tại Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú trước khi xuất cảnh của một trong hai bên nam, nữ.

Về thủ tục Thủ tục đăng ký kết hôn:

1. Khi đăng ký kết hôn, hai bên nam, nữ phải nộp Tờ khai (theo mẫu quy định) và xuất trình Giấy chứng minh nhân dân.

Trong trường hợp một người cư trú tại xã, phường, thị trấn này, nhưng đăng ký kết hôn tại xã, phường, thị trấn khác, thì phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú về tình trạng hôn nhân của người đó.

Đối với người đang trong thời hạn công tác, học tập, lao động ở nước ngoài về nước đăng ký kết hôn, thì phải có xác nhận của Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam tại nước sở tại về tình trạng hôn nhân của người đó.

Đối với cán bộ, chiến sĩ đang công tác trong lực lượng vũ trang, thì thủ trưởng đơn vị của người đó xác nhận tình trạng hôn nhân.

Việc xác nhận tình trạng hôn nhân nói trên có thể xác nhận trực tiếp vào Tờ khai đăng ký kết hôn hoặc bằng Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân theo quy định tại Ủy ban nhân dân cấp xã của người có yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân thực hiện việc cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho người đó; Công dân Việt Nam đang cư trú ở nước ngoài có yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân trong thời gian ở trong nước, thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú trước khi xuất cảnh, thực hiện việc cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân; Công dân Việt Nam đang cư trú ở nước ngoài có yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân trong thời gian ở nước ngoài, thì cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam ở nước mà người đó cư trú, thực hiện việc cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân.

Việc xác nhận tình trạng hôn nhân có giá trị 6 tháng, kể từ ngày xác nhận.

2. Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ, nếu xét thấy hai bên nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, thì Ủy ban nhân dân cấp xã đăng ký kết hôn cho hai bên nam, nữ.

Trong trường hợp cần phải xác minh, thì thời hạn nói trên được kéo dài thêm không quá 5 ngày.

3. Khi đăng ký kết hôn, hai bên nam, nữ phải có mặt. Đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã yêu cầu hai bên cho biết ý muốn tự nguyện kết hôn, nếu hai bên đồng ý kết hôn, thì cán bộ Tư pháp hộ tịch ghi vào sổ đăng ký kết hôn và Giấy chứng nhận kết hôn. Hai bên nam, nữ ký vào Giấy chứng nhận kết hôn và sổ đăng ký kết hôn, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã ký và cấp cho mỗi bên vợ, chồng một bản chính Giấy chứng nhận kết hôn, giải thích cho hai bên về quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. Bản sao Giấy chứng nhận kết hôn được cấp theo yêu cầu của vợ, chồng.

Hồi xưa, ở thôn quê, địa bàn sinh sống gói gọn trong làng xã, trai gái làng thường quen biết, phải lòng nhau, tiến đến hôn nhân. Có khi nhà trai, nhà gái cách chỉ một con mương, ho một tiếng cũng nghe, nhà này xào nấu là nhà kia cũng “no mùi”. Rước dâu phải tìm đường xa xa, có quay phim, chụp ảnh càng phải rước dâu vòng vèo để cảnh sắc được phong phú. “Nhất cự ly, nhì tốc độ”, những cuộc tình gần có vẻ luôn “xuôi chèo mát mái”?

Thật ra không hẳn cự ly gần là thuận. Khi người lớn hai bên giáp mặt, không ai phải giới thiệu vì đã quá rõ về nhau, cảnh ngang trái mà các cặp đôi chung làng sợ nhất là “phụ mẫu nhìn bà con”. “Bà con mà, gả cưới gì”, đã chốt bằng câu đó thì khỏi có mà thương thảo, hứa hẹn gì được nữa. Mâm trầu cau, trà rượu bèn ôm về. Lắm khi chẳng phải huyết thống gần gũi gì, kiểu “bà con bắn đại bác ba ngày chưa tới”, chỉ là cháu ông cháu bà, hoặc nếu kết sui gia thì lệch vai lệch vế xưng hô đâm ngại. Mấu chốt ở vấn đề nhạy cảm là chê chàng rể xấu trai, chơi bời, nhậu nhẹt; chê “cha nhiều vợ, con nhiều dòng” hay không “môn đăng hộ đối”. Không ưng bụng mà nói thẳng sợ mích lòng, thành ra viện cớ “bà con” để khỏi gả, chờ mối khác “thơm” hơn.

Nhưng nếu thực sự là bà con của nhau thì sao? Họ gần họ xa đong đếm thế nào cho đúng?

“Tụi mày là bà con, không gả cưới gì hết!”

Trường hợp cụ thể, Nhật Tân và Kim Ánh(*) yêu nhau, nhưng đến 90% người trong dòng họ phản đối. Căng nhất là hai bà ngoại của Tân và Ánh, vì hai bà là chị em ruột của nhau. “Cháu ngoại của hai chị em ruột có kết hôn với nhau được không?”, câu hỏi này được gửi đến luật sư Vũ Thị Hoài Vân (Đoàn Luật sư TP.HCM), và câu trả lời là: “Được”.

Luật sư Hoài Vân tư vấn, điểm d khoản 2 điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định cấm hành vi “Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng”.

Theo điều 3 của luật này, những người cùng dòng máu về trực hệ là những người có quan hệ huyết thống, trong đó, người này sinh ra người kia kế tiếp nhau (khoản 17); những người có họ trong phạm vi ba đời là những người cùng một gốc sinh ra gồm cha mẹ là đời thứ nhất; anh, chị, em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha là đời thứ hai; anh, chị, em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì là đời thứ ba (khoản 18).

Ai cũng biết luật pháp cấm kết hôn đối với những người họ hàng trong phạm vi ba đời, nhưng trong từng trường hợp cụ thể, cũng “rối não” với phép tính chỉ ba dòng ấy. Thậm chí có người bảo thủ, cố chấp, không muốn tính, không muốn hiểu, vì từ đầu đã cho rằng cuộc tình ấy là bậy bạ, là thương luân bại lý. Luật sư Hoài Vân tỉ mẩn vẽ sơ đồ gia phả đối với trường hợp cặp đôi Tân và Ánh. Theo đó, thân sinh của bà ngoại Tân và bà ngoại Ánh được tính là đời thứ nhất (là gốc), ông bà ngoại Tân - ông bà ngoại Ánh là đời thứ hai, cha mẹ Tân - cha mẹ Ánh là đời thứ ba, Tân và Ánh là đời thứ tư.

Do Tân và Ánh không phải họ hàng trong phạm vi ba đời, và cả hai đã đủ tuổi, đang không có vợ/chồng... nên hôn nhân của cặp đôi được tôn trọng và pháp luật bảo vệ. Ngay cả kết hôn giữa người họ hàng thuộc đời thứ ba với người thuộc đời thứ tư cũng nằm trong hành lang pháp luật cho phép. Thừa nhận tính hợp pháp khi Tân và Ánh đến với nhau, ước mong xây đắp gia đình đồng nghĩa với 90% họ hàng của Tân và Ánh đã phạm vào điều cấm “cản trở kết hôn”.

Ảnh minh họa

Vùng tối của người lớn - vực thẳm của đôi trẻ

Vẻ hồn nhiên, nhu mì và tình cảm chân thành của Ánh đã giúp Tân cải thiện dần tính ham chơi, ăn xài phung phí hình thành từ bé trong gia đình có điều kiện. Lần bắt gặp Tân và Ánh lén lút hẹn hò ngoài bờ sông, người hàng xóm loan tin, cả họ hàng gần xa bàn tán rùm beng. Không ai chấp nhận hai người bà con gần như thế lại quan hệ yêu đương với nhau. Ba mẹ Tân đổ cho Ánh là tẩm bùa mê thuốc lú khiến con trai mình không còn phân định đúng sai. Ba mẹ Ánh thì gợi lại chuyện Tân vỡ nợ để chứng tỏ Tân chỉ giả vờ yêu Ánh hòng lợi dụng tiền bạc.

Cuộc họp đại gia đình được tổ chức mà không có sự tham dự của hai nhân vật chính: Tân và Ánh. Người chủ trì là hai bà ngoại lớn tiếng phán: “Thời này loạn à? Nghĩ sao hai chị em mà lại thành bà ngoại sui của nhau? Rồi hai đứa bây là bạn dì ruột lại ngồi sui với nhau còn thể thống gì? Tụi bây cưng chiều thả cửa riết con cháu điên loạn hết, nói không nghe”. Các bên cãi cọ, khích bác nhau cả buổi, cuối cùng hai bà ngoại chốt là cấm tiệt hai cháu gặp nhau và lệnh con nhà ai nấy dạy, gả cưới liền cho ai khác càng tốt để tụi nó sớm từ bỏ mối tình “quái thai”.

Vốn tính hiền lành, ngoan ngoãn, nhưng trước sự cố chấp của người lớn, Ánh cũng nhiều lần phân tích, bảo vệ quan điểm của mình và người yêu, rằng hai đứa không làm gì sai. “Ngoại cấm cản vì ngoại đứng ở vị trí của ngoại, nhìn lên ông bà cố thì thấy họ hàng quá gần. Mà thực ra người cưới nhau là hai đứa cháu mà, là cách hai bậc thang nữa, nên đâu còn trong vòng cấm kỵ”. Người lớn không ai thèm nghe đôi trẻ phân bày, cứ phủ đầu là ngoan cố, ngông cuồng. Mẹ Ánh còn thường xuyên dọa tự tử vì quá nhục nhã với đứa con gái dại dột, cứng đầu. Cứ bắt gặp Tân hẹn hò Ánh là hai nhà mắng chửi xối xả, khiến Tân không còn lễ phép, chuyện trò hoạt bát như xưa.

Hai nhà ngăn cấm, kiểm soát, lấy điện thoại, nhốt trong nhà, khóa xe giấu chìa khóa, không cho tiền (Ánh đang học đại học)... Sức ép tinh thần không làm Tân và Ánh nản chí bỏ cuộc. Đôi trẻ nuôi ý định bỏ trốn để tìm cuộc sống yên bình và được bên nhau. Áp lực hai gia đình càng đẩy nhanh tiến trình yêu đương của họ. Trạng thái tâm lý căng thẳng và buông xuôi đã đưa đến những biến cố ngoài ý muốn khác: Ánh phải bỏ dở việc học vì trốn đến một nơi xa xôi, bị gia đình cắt viện trợ, thu nhập từ công việc lao động phổ thông của cả hai không đủ cho Ánh đóng học phí. Và trong bức tranh tối màu đó, một bào thai dần tượng hình trong bụng Ánh...

“Tai vách mạch rừng”, gia đình biết được tin này đã tìm đến dụ dỗ Ánh quay về, người lớn đã nghĩ lại và chấp nhận tình cảm hai đứa. Nhưng khi biết được mục đích chính của gia đình chỉ là ép Ánh phải phá bỏ cái thai, Ánh lại một lần nữa trốn đi... Trong khi Tân hết lòng chăm sóc chia sẻ cho “vợ”, vất vả làm ngày làm đêm để vừa đóng tiền trọ, vừa trang trải cuộc sống gia đình, vừa tích lũy tiền nuôi con, thì hai người lớn cứ nguyền rủa và trông cho cặp đôi đói quá không chịu nổi sẽ “trồi đầu về”. Họ đắc thắng trên sự bất hạnh của con trẻ. Người nào trong họ mà thương cảm, lén lút gửi tiền cho cặp đôi “bất trị” đó, không khéo còn bị từ mặt.

Không ít cặp đôi đã đưa nhau đi trốn để được bên nhau. Ảnh minh họa

Đành rằng ở tuổi trưởng thành, Tân và Ánh đã phải tự chịu trách nhiệm những chọn lựa của mình, nhưng trong việc sa chân vào vực thẳm nghèo khó hiện tại có một phần từ sự lạnh lùng, nhẫn tâm của người lớn. Họ hàng đông người nhưng lại để con cháu bơ vơ, đơn độc vì không ai thực sự là điểm tựa. Họ dùng quyền uy của người có công sinh đẻ, nuôi nấng, sẵn sàng bịt mắt bịt tai trước suy nghĩ và nguyện vọng của con, đoạt luôn quyền thiết kế cuộc đời con từ ăn mặc, học hành, nghề nghiệp, công việc đến chọn bạn đời. Nếu họ chịu để pháp lý soi sáng và một chút mở lòng, thì hạnh phúc của đại gia đình có phải đã đậu sẵn trước cửa nhà mình?

Hôn nhân là do hai chủ thể quyết định trên cơ sở tình yêu và pháp lý. Nếu có sự bất đồng từ bên ngoài, thì việc cùng nhau bỏ nhà đi xây dựng cuộc sống riêng chỉ là giải pháp chẳng đặng đừng và khi không còn đường nào khác. Họ phải trả giá quá đắt vì thiếu lộ trình chuẩn bị về kiến thức, tài chính, sức khỏe, kỹ năng xây dựng gia đình... Khi tình yêu và hôn nhân tự nguyện bị cản trở, cặp đôi có thể thẳng thắn, mạnh mẽ và kiên trì cất lên tiếng nói của mình, đồng thời nhờ sự hỗ trợ của người có hiểu biết và uy tín trong dòng họ, bạn bè; nhờ luật sư, chuyên gia tâm lý, hội phụ nữ... để có tính khách quan, tăng sức mạnh thuyết phục đại gia đình.

Tại sao 2 anh em ruột không được lấy nhau?

- Như vậy căn cứ vào các quy định trên có thể thấy anh em họ có thứ bậc thấp hơn một bậc so với anh em ruột nhưng vẫn nằm trong mối quan hệ huyết thống trong phạm vi ba đời nên trong trường hợp anh em họ thì không thể kết hôn được với nhau vì vi phạm quy định cấm trong luật hôn nhân và gia đình.

Họ hàng cách bao nhiêu đời thì được lấy nhau?

Như vậy, họ hàng trong phạm vi 4 đời trở lên thì được kết hôn với nhau. Nếu có họ trong phạm vi ba đời trở xuống thì không được kết hôn.

Họ hàng là như thế nào?

Những người có quan hệ huyết thống, trong quan hệ với nhau (nói tổng quát). Họ hàng hai bên nội, ngoại. Hai người có họ hàng với nhau (có quan hệ họ hàng).

Họ kết bạn là gì?

10. Họ kết bạn (hôn thuộc) (đ. 1092): Họ kết bạn được hình thành do cuộc kết hôn thành sự; kết hôn bất thành bất cứ có liên hệ hôn thuộc hàng dọc nào. Ví dụ, sau khi vợ chết, người chồng kết hôn với mẹ vợ hay con gái riêng của vợ đều bất thành.

Chủ đề