Giai điệu của làn điệu quan họ như thế nào

Posted from Bắc Ninh, Việt Nam.

Văn hóa Quan họ mang trong mình khối lượng bài hát dân ca đặc biệt phong phú. Và hơn thế nữa, đó còn là cách ứng xử ý nhị đầy tinh tế. 

Dân ca Quan họ là gì?

Dân ca Quan họ là làn điệu dân ca phong phú bậc nhất của vùng Kinh Bắc xưa kia, Đồng bằng sông Hồng hiện nay. Trong đó, Kinh Bắc trước gồm tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, một phần Lạng Sơn, Hưng Yên, Hà Nội. 

Loại hình văn hóa này phát triển mạnh tại vùng giáp ranh giữa tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh. Dòng sông Cầu chảy qua khu vực đó cũng được gọi với cái tên thân thương, “dòng sông quan họ”. 

Thay vì ghi chép sách sách vở, giai điệu Quan họ được lưu truyền và phát triển từ đời này sang đời khác theo hình thức truyền khẩu. Hát quan họ là hình thức hát đối đáp giữa “bọn nữ”. làng này với “bọn nam” làng khác. Cả 2 bên cùng hát chung một giai điệu nhưng khác về lời ca, giọng điệu, trong đó dân ca có 213 giọng, hơn 400 bài ca.

Tại kỳ họp lần thứ tư của UNESCO năm 2009, dân ca Quan hộ và ca trù đồng thời được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Đây là vinh dự thứ 4 của Việt Nam Sau nhã nhạc cung đình Huế, không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên.

Giai điệu của làn điệu quan họ như thế nào

Nguồn gốc dân ca Quan họ

Từ “Quan họ” thường được giải nghĩa bằng cách tách từng từ “quan” và của “họ”. Điều này dẫn đến nhiều kiến giải khác nhau về “Quan họ”. Có người cho rằng di sản này bắt nguồn từ “âm nhạc cung đình”. Số khác lại kể về sự tích một ông quan khi qua vùng Kinh Bắc đã bị tiếng hát của liền anh liền chị hấp dẫn mà phải dừng bước (“họ”). 

Tuy nhiên, xét tới cùng thì 2 cách đó đều chưa xét tới các thành tố trong văn hóa cộng đồng hóa học. Các điều cốt yếu bao gồm hình thức sinh hoạt, diễn xướng, cách tổ chức, phương thức giao lưu, đối chữ dân gian.

Một quan điểm nữa là nghi lễ tôn giáo dân có tính phồn thực. Thuyết này gạt bỏ nguồn gốc âm nhạc cung đình hoặc diễn tiến từ hình thức sinh hoạt văn hóa “chơi Quan họ” đến cung đình rồi trở lại dân gian.

Mặc khác, một số người phân tích nguồn gốc dựa trên ngữ nghĩa làn điệu và không gian sinh hoạt. Theo đó, Quan họ bắt nguồn từ tập hợp những người yêu quan họ vùng Kinh Bắc.

Đến tận ngày nay đa số học giả vẫn chưa đồng tình với đáp án nào. Nhưng lịch sử vẫn phải tiếp tục vận hành theo cách của nó. Ngay nay Quan họ không chỉ là lối hát đối đáp giữa “liền anh” và “liền chị” mà còn là hình thức giao lưu giữa người biểu diễn với khán giả. 

Giai điệu của làn điệu quan họ như thế nào

Văn hóa Quan họ

Hiện danh sách bảo tồn và phát triển di sản văn hóa bao đã thống kế 67 làng quan họ. Trong đó, Bắc Giang có 23 làng, Bắc Ninh có 44 làng. Tuy nhiên, UNESCO ban đầu chỉ công nhận 49 làng Quan họ. 

Các làng dân ca Quan họ Kinh Bắc nằm tại các huyện Yên Phong, Từ Sơn, Tiên Du thuộc Bắc Ninh và Việt Yên, Yên Dũng, Hiệp Hòa thuộc Bắc Giang. Hầu hết lớn các làng quan họ truyền thống đều thờ thánh Tam Giang gắn với sông Cầu. 

Chính điều này đã tạo nên môi trường văn hóa riêng biệt với nhiều phong tục, tập quán riêng biệt. Độc đáo nhất là tục kết bạn quan họ hay còn gọi tập quán “kết chạ” giữa các làng quan họ (tục kết bạn quan họ). Mỗi “bọn nữ” quan họ của một làng sẽ kết bạn với “bọn năm” của làng khác và ngược lại. Trai gái trong các “bọn” đã kết chạ thì không được kết hôn.

Ngoài ra, văn hoá quan thể hiện ở cách ứng xử khéo léo, tế nhị, kín đáo. Từ làn điệu mời nước đến mời trầu đều thể hiện tấm lòng hiếu khách, thân thiện của gia chủ. Đó cũng là cái tinh tế của con người xứ Bắc Kỳ xưa. 

Giai điệu của làn điệu quan họ như thế nào

Quan họ truyền thống

Quan họ truyền thống chỉ xuất hiện ở 67 làng Quan họ gốc xứ Kinh Bắc xưa. Hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian này có quy định khắt khe đòi hỏi liền anh, liền chị phải nằm lòng và tuân thủ. Do đó, người Kinh Bắc thích “chơi Quan họ” chứ không chỉ “hát Quan họ”. 

Trong diễn xướng, dân ca Quan họ truyền thống không dùng nhạc đệm, chủ yếu hát đôi vào lễ hội xuân thu nhị kỳ. Hình thức đôi liền anh đối đáp với đôi liền chị gọi là hát hội, hát canh. Ngược lại, hình thức hát nhóm liền anh đối đáp lại nhóm liền chị gọi là hát chúc, hát mừng hay hát thờ.

Bên cạnh đó, “chơi Quan họ” truyền thống không có khán giả. Người trình diễn khi này cũng đóng vai trò là người thưởng thức. Nhiều bài quan họ thuở trước như Mời nước mời trầu, Cây trúc xinh, Xe chỉ luồn kim vẫn được các liền anh, liền chị sử dụng thường xuyên. 

Giai điệu của làn điệu quan họ như thế nào

Quan họ mới

Quan họ mới hay “hát Quan họ lời mới” là hình thức biểu diễn chủ yếu trên sân khấu hoặc các khu vực sinh hoạt cộng đồng khác. Hình thức này có thể diễn ra hàng ngày trong năm và ở bất kỳ đâu. Các băng đĩa, video ngày nay đều thuộc Quan họ mới với lời cải biên. 

Mô hình luôn cần tới khán thính giả và gửi gắm tình cảm cho họ nên đôi khi không cần bên đối đáp để biểu diễn. Đối tượng nghe không chỉ giới hạn trong làng xã mà vươn ra tầm thế giới. Kịch bản có thể theo nội dung có trước hoặc tùy cảm hứng sáng tạo của người diễn xướng.

So với Quan họ truyền thống, hình thức biểu diễn này phong phú hơn như hát đơn, hát đôi, tốp ca,.. Vấn đề cải biên của dân ca Quan họ mới được phân chia thành có ý thức và không có ý thức.

Trong đó, dạng có ý thức được thực hiện bài bàn thay đổi pử cả nhạc và lời so với bài gốc truyền thống. Loại cải biên có ý thức thực tế không nhiều. Đa phần bài hát quan họ có nhạc đệm đều thuộc cải biên không có ý thức. 

Nhiều bài quan họ với lời mới phổ biến đến mức nhiều người nhầm tưởng là bài truyền thống. Chẳng hạn, bài”Sông Cầu nước chảy lơ thơ” cải biên từ “Nhất quế nhị lan”. Điều tạo nên sức lan truyền mạnh mẽ của Quan họ mới chính là hoạt động quảng bá văn hóa quan họ trên diện rộng. 

Giai điệu của làn điệu quan họ như thế nào

Làn điệu

Quan họ là thể loại dân ca phong phú bậc nhất kho tàng dân gian Việt. Lượng bài hát quan họ được ký âm hiện nay là trên 300. Tại Sở Văn hóa tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh, kho băng ghi âm lên tới hàng nghìn bài truyền thống đang được lưu trữ.

Một số làn điệu cổ có thể kể tới như Cây gạo, Giã bạn, Tình tang, Lên núi, Xuống sông, Gió mát trăng thanh,…Tất cả đều toát lên vẻ đẹp hiện hữu lâu đời tại quê hương Kinh Bắc. 

Giai điệu của làn điệu quan họ như thế nào

Cách hát

Nhìn chung Quan họ chủ yếu hát đôi. Khi một đôi đang hát thì bên bạn cũng đang chuẩn bị vế đối. Chính vì vậy hát dân ca Quan họ là loại hát đối đáp, hát giao duyên. Những người hát Quan họ thường được gọi là liền anh, liền chị. 

Cấu trúc mỗi điệu hát được tạo nên trong lễ kết nghĩa. Lễ bắt đầu từ lời thăm hỏi hoặc hứa hẹn. Sau đó, họ lại gặp tiếp ở bên nam, đôi khi thâu đêm.

Tùy vào cữ giọng, âm sắc mà họ xếp thành các cặp như anh Cả với chị Cả, anh Hai với chị Hai,… Lời ca chủ yếu về tình yêu đôi lứa nhưng quan hệ của họ lại rất trong sáng, bình đẳng. Thời gian kết nghĩa từng cặp có thể nhiều đời hoặc một vài năm. 

Theo văn hóa Quan họ, nghệ nhân cần thực hiện lão luyện 4 yếu tố “vang, rền, nền, nẩy” và thuộc nhiều bài, nhiều giọng điệu. Không chỉ giỏi thực hành, họ còn là bậc bậc thầy trong việc sáng tạo, lưu giữ và truyền lại vốn quý cho thế hệ sao. 

Giai điệu của làn điệu quan họ như thế nào

Trang phục

Trang phục là yếu tố quan trọng tô thêm nét đặc trưng của văn hóa chơi dân ca Quan họ. Quần áo mỗi bên đều có đặc trưng riêng. Khi hát ngoài trời, nam sẽ che ô, nữ đội nón thúng quai thao. Phụ kiện này phần nào đem tới sự dễ chịu phần nào thêm vẻ duyên dáng. 

Liền anh thường mặc khăn xếp, áo the, quần sớ. Áo dài 5 thân của liền anh cổ dựng, có lá sen, viền tà, dài qua đầu gối. Bên trong mặc 1-2 áo cánh rồi đến 2 áo dài. 

Riêng áo dài thường là màu đen với chất lượng, the, giàu hơn thì may đoạn. Loại áo phủ ngoài 2 lần với phần ngoài may kiểu phổ thông, phần trong làm từ lụa mỏng màu xanh hoặc vàng. Mẫu này là áo kép. 

Bên cạnh đó, liền anh sử dụng quần dài trắng, ống rộng tới mặt cá nhân với thắt lưng nhỏ. Quần thường may từ diềm bâu, trúc bâu, phin hay lụa màu mỡ gà. Có thắt lưng nhỏ để thắt chặt cạp quần. 

Xưa kia, đàn ông chuộng dùng làm búi tó từ khăn nhiễu. Sau này, liền anh này hay dùng khăn xếp do cắt tóc ngắn, rẽ ngôi. Nhiều đàn ông cũng dùng thêm nón chóp hoặc ô đen. Ngoài ra, khăn tay, lược gài ở vàng khăn, thắt lưng hay đút ở túi trong được coi là phụ kiện sang quý năm xưa. 

Giai điệu của làn điệu quan họ như thế nào

Trang phục các liền chị có phần phức tạp hơn với áo mớ ba, mớ bảy, áo tứ thân. Đi kèm với áo là yếm đào, thắt lưng, khuyên vàng, xà tích, khăn mỏ quạ, nón thúng quai thao. 

Áo mớ ba mớ bảy thực chất là mặc ba áo dài hoặc bảy áo dài lồng với nhau, trong mớ ba là phổ biến nhất. Chất liệu may áo tốt nhất là the, lụa. Áo dài ngoài màu màu nền nã hơn như nâu già, nâu nhạt, đen, cánh gián. Ngược lại, áo trong chuộng màu rực như cánh sen, hoa hiên, hồ thuỷ, vàng chanh,… 

Trong cùng các liền chị mặc yếm lụa truội nhuộm. Người trung niên thường mặc yếm xẻ, thanh nữ mặc yếm cổ viền. 

Bên ngoài yếm là áo cánh màu trắng, vàng và ngà. Cách phối màu áo dài năm thân tương tự như trang phục nam nhưng màu rực rỡ hơn. Áo năm thân nữ có cài khuy không giống với tứ thân thắt hai vạt trước. 

Tiếp đến là giải yếm buông xuống và giải yếm thắt eo, thắt múi to phía trước cùng bao nhỏ dùng thắt chặt cạp váy. Tương tự màu yếm, thắt lưng chuộng lụa nhuộm màu sáng. Trong đó, bao của liền chị xưa thường dùng sồi se nhuộm đen. Túi đựng tiền được trang trí tua bện ở hai đầu, cỡ rộng. 

Thêm vào đó, liền chị thường đi dép da trâu làm thủ công. Trên mặt dép có vòng tròn da để tiện xỏ ngón hai. Mũi dép cứng uốn cong khéo che đầu ngón chân. 

Giai điệu của làn điệu quan họ như thế nào

Gợi ý xem thêm: