Giá trị văn hóa của quần thể di tích cố đô huế

Hội nghị lần thứ 17 của Ủy ban Di sản Thế giới họp tại Cartagena (Colombia) ngày 11 tháng 12 năm 1993 đã công nhận Khu Di tích cố đô Huế là Di sản văn hóa thế giới với tiêu chí (iii): Huế thể hiện là một bằng chứng nổi bật của quyền lực phong kiến Việt Nam đã mất mà đỉnh cao của nó vào đầu thế kỷ XIX, và tiêu chuẩn (iv): Quần thể di tích Huế là một ví dụ nổi bật của một kinh đô phong kiến phương Đông.

Trong gần 400 năm (1558-1945), Huế đã từng là Thủ phủ của 9 đời chúa Nguyễn ở Đàng Trong, là Kinh đô của triều đại Tây Sơn, rồi đến Kinh đô của quốc gia thống nhất dưới 13 triều vua Nguyễn. Nói đến Huế, người ta nghĩ ngay đến những thành quách, cung điện vàng son, những đền đài miếu vũ lộng lẫy, những lăng tẩm uy nghiêm, những danh lam cổ tự trầm tư u tịch, những thắng tích thiên nhiên thợ trời khéo tạc... 

Nằm giữa lòng Huế, bên bờ Bắc của sông Hương chảy xuyên qua từ Tây sang Đông, hệ thống kiến trúc biểu thị cho quyền uy của chế độ trung ương tập quyền Nguyễn vẫn đang sừng sững trước bao biến động của thời gian. Đó là Kinh thành Huế, Hoàng thành Huế, Tử cấm thành Huế, ba vòng thành lồng vào nhau được bố trí đăng đối trên một trục dọc xuyên suốt từ mặt Nam ra mặt Bắc.

Hoàng thành giới hạn bởi một vòng tường thành gần vuông mỗi chiều xấp xỉ 600m với 4 cổng ra vào mà độc đáo nhất thường được lấy làm biểu tượng của Cố đô: Ngọ Môn, chính là khu vực hành chính tối cao của triều đình Nguyễn. Bên trong Hoàng thành, hơi dịch về phía sau, là Tử cấm thành - nơi ăn ở sinh hoạt của Hoàng gia. Xuyên suốt cả ba tòa thành, con đường Thần đạo chạy từ bờ sông Hương mang trên mình những công trình kiến trúc quan yếu nhất của Kinh thành Huế: Nghinh Lương Đình, Phu Văn Lâu, Kỳ Đài, Ngọ Môn, điện Thái Hòa, điện Cần Chánh, điện Càn Thành, cung Khôn Thái, lầu Kiến Trung... Hai bên đường Thần đạo này là hàng trăm công trình kiến trúc lớn nhỏ bố trí cân đối đều đặn, đan xen cây cỏ, chập chờn khi ẩn khi hiện giữa những sắc màu thiên nhiên, luôn tạo cho con người một cảm giác nhẹ nhàng thanh thản.Về phía Tây của Kinh thành, nằm hai bên bờ sông Hương, lăng tẩm của các vua Nguyễn được xem là những thành tựu của nền kiến trúc cổ Việt Nam. Bên cạnh thành quách cung điện lăng tẩm nguy nga tráng lệ, Huế còn lưu giữ trong lòng nhiều công trình kiến trúc độc đáo gắn liền với chế độ quân chủ nhà Nguyễn, cách phối trí của các khoảng không gian đã tiến đến đỉnh cao của sự hài hòa trong bố cục. Gần một thế kỷ rưỡi là Kinh đô của một triều đại phong kiến với thiết chế chính trị dựa trên nền tảng Nho giáo, lại từng là thủ phủ của Phật giáo một thời, bên cạnh những kiến trúc cung đình lộng lẫy vàng son, Huế còn lưu giữ hàng trăm ngôi chùa thâm nghiêm cổ kính, an lạc giữa những núi rừng hoang vu u tịch. Ngày nay, Huế trở thành một thành phố Festival tổ chức hai năm một lần. Huế là một di sản văn hóa độc đáo của Việt Nam và thế giới. Ngày 7 tháng 11 năm 2003, Âm nhạc cung đình Huế: Nhã nhạc (triều Nguyễn) đã được UNESCO ghi tên vào danh mục Các Kiệt tác Di sản phi vật thể của nhân loại.

Giá trị văn hóa của quần thể di tích cố đô huế

Kiến trúc Huế là sự kết hợp độc đáo giữa những nguyên tắc của kiến trúc truyền thống Việt, tư tưởng triết lý phương Đông, cùng những đặc điểm mang ảnh hưởng của kiến trúc quân sự phương Tây, hài hòa với các yếu tố tự nhiên: núi Ngự Bình, sông Hương, cồn Giã Viên, cồn Bộc Thanh, cồn Hến…

Trải qua thời gian và những biến thiên của lịch sử, Huế vẫn bảo tồn được diện mạo của một kinh đô xưa, với hàng trăm công trình nghệ thuật tuyệt mỹ, vừa có giá trị đặc biệt về lịch sử và văn hóa, vừa phong phú, đa dạng, mang đậm bản sắc Huế…

Về di sản kiến trúc của Cố đô Huế, có thể kể đến những di tích tiêu biểu sau: Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm thành, hệ thống lăng tẩm của các vua Nguyễn, cung An Định, Trai cung, bến thuyền Cung đình, Trấn Bình đài, Trấn Hải thành, điện Hòn Chén, nhà bà Từ Cung, Văn miếu, Võ miếu, Hải Vân quan,…

Kinh thành Huế: được khởi công xây dựng từ năm 1805, hoàn thành năm 1832, nằm bên bờ Bắc của sông Hương, quay mặt về hướng Nam, gồm ba toà thành lồng vào nhau, được bố trí đăng đối trên một trục dọc, xuyên suốt từ mặt Nam ra mặt Bắc, xung quanh có 10 cửa chính và hệ thống vọng canh, hào nước…

Đại nội (Hoàng thành, Hoàng cung): nằm giữa trục chính của Kinh thành Huế, bao gồm các khu vực chính như sau:

- Khu vực phòng vệ gồm: hệ thống hồ Kim thủy (hào), tường bao bọc và 10 cây cầu.

- Khu vực cử hành đại lễ: được tính từ Ngọ môn đến điện Thái Hòa, là nơi cử hành các nghi lễ Nguyên đán, Vạn thọ, Hưng quốc Khánh niệm, Ban sóc, Duyệt binh, Truyền lô, Đăng quang, Tứ tuần, Ngũ tuần Đại khánh tiết của các Vua nhà Nguyễn.

- Khu vực các miếu thờ của vua chúa Nguyễn gồm: Triệu miếu, Thái miếu, Hưng miếu, Thế miếu, điện Phụng tiên.

- Khu vực ăn ở của Hoàng thái hậu và Thái Hoàng thái hậu gồm: cung Diên Thọ và cung Trường Sanh (Sinh).

- Khu vực phủ Nội vụ gồm: nhà kho lưu giữ đồ quý, xưởng thủ công mỹ nghệ chế tạo đồ vàng, bạc, ngọc, ngà, gấm, vóc.

- Khu vực vườn Cơ Hạ và điện Khâm Văn: là nơi học tập và chơi đùa của các Hoàng tử khi chưa xuất phủ.

- Khu vực Tử Cấm Thành: là chốn cung cấm, dành riêng cho Vua và hoàng gia ăn ở, sinh hoạt.

Ngọ môn: là cổng chính phía Nam của Hoàng thành, được xây dựng vào năm Minh Mạng thứ 14 (1833), phía trên có lầu Ngũ Phụng, là nơi xưa kia triều đình tổ chức nghi lễ.

Điện Thái Hòa: được xây dựng năm 1805. Điện được xây theo lối ‘‘trùng thiềm điệp ốc’’, với hệ thống vì kèo truyền thống, được sơn thếp và trang trí đồ án rồng vờn...

Lăng tẩm của các vua Nguyễn: được xem là những thành tựu của nền kiến trúc cảnh vật hoá. Lăng vua, đôi khi lại là một cõi thiên đường, được tạo ra cho chủ nhân hưởng thú tiêu dao lúc còn sống, rồi sau đó mới trở thành cõi vĩnh hằng khi bước vào thế giới bên kia. Một số lăng tiêu biểu như:

- Lăng Minh Mạng (Hiếu lăng): trên núi Cẩm Khê, xã Hương Thọ, đựợc xây dựng từ năm 1840, hoàn thành năm 1843, bao gồm các hạng mục: tẩm điện, Tam tài sơn, lăng mộ, hồ Trừng Minh và Tân Nguyệt...;

- Lăng Tự Đức (Khiêm lăng): ở xã Thủy Xuân, được xây dựng từ năm 1864, hoàn thành năm 1867, bao gồm các hạng mục: La thành và các cổng, Chí Khiêm đường, điện thờ, lăng Lệ Thiên Anh Hoàng hậu, lăng Kiến Phúc, hồ Lưu Khiêm...

Đàn Nam Giao: ở phía Nam của Kinh thành Huế, được xây dựng vào năm 1807. Đàn có mặt bằng hình chữ nhật, chiều dài 390m, chiều rộng 265m, gồm các hạng mục: Đàn tế, Trai cung, Thần trù, Thần khố...

Văn Miếu: ở bờ Bắc của sông Hương, cách chùa Thiên Mụ khoảng 500m về phía Tây, được xây dựng năm 1808, để thờ Khổng Tử. Văn Miếu quay mặt về hướng Nam, bao gồm các hạng mục: Văn miếu, Đông vu, Tây vu và dãy nhà bia.

Hổ Quyền: ở địa phận xã Thủy Biều, xây dựng năm 1830. Đây là một đấu trường có mặt bằng hình vành khăn, gồm hai vòng tường gạch (ở trong và ngoài), xung quanh trổ chuồng cọp và cửa vòm cho voi ra vào, phía trên là khán đài.

Bên cạnh kho tàng di sản văn hóa kiến trúc đồ sộ có giá trị và mang tầm vóc quốc tế, trong khu vực Cố đô Huế còn lưu giữ được nhiều hiện vật có giá trị, tiêu biểu như đồ gốm, sứ, tác phẩm nghệ thuật…Ngoài ra, Cố đô Huế còn là một trung tâm văn hóa chứa đựng nhiều di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc, bao gồm sinh hoạt văn hóa cung đình, lễ hội cung đình, âm nhạc và vũ đạo cung đình, cùng các ngành nghề thủ công truyền thống...

Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc biệt của di tích, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Quần thể kiến trúc Cố đô Huế là di tích quốc gia đặc biệt (Quyết định số 1272/QĐ-TTg, ngày 12/08/2009).

Cảnh Toàn (Theo Hồ sơ xếp hạng di tích, tư liệu Cục Di sản văn hóa)