Đồng nào dưới đây đúng về ngữ âm và chữ viết trong cách sử dụng ngôn ngữ báo chí

Dòng nào dưới đây đúng về ngữ âm và chữ viết trong cách sử dụng ngôn ngữ báo

18/11/2020 173

Câu hỏi Đáp án và lời giải Ôn tập lý thuyết
Câu Hỏi:
Dòng nào dưới đây đúng về ngữ âm và chữ viết trong cách sử dụng ngôn ngữ báo chí?
A. Người nói phát âm theo giọng địa phương nơi mình sinh sống. B. Người nói phải nói chuẩn, rõ ràng, người viết được viết theo ngôn ngữ đời sống C. Người nói phải phát âm rõ ràng, nói chuẩn, tôn trọng người nghe, người viết phải viết đúng quy cách
Câu hỏi trong đề: Trắc nghiệm bài Phong cách ngôn ngữ báo chí
Đáp án và lời giải
đáp án đúng: C

Điền Chính Quốc (Tổng hợp)

Ôn tập lý thuyết
Báo đáp án sai
Đang xử lý...

Cảm ơn Quý khách đã gửi thông báo.

Quý khách vui lòng thử lại sau.

Trắc nghiệm ngữ văn 11 bài: Phong cách ngôn ngữ báo chí

Bài có đáp án. Câu hỏi và bài tập trắc nghiệm ngữ văn 11 bài: Phong cách ngôn ngữ báo chí. Học sinh luyện tập bằng cách chọn đáp án của mình trong từng câu hỏi. Dưới cùng của bài trắc nghiệm, có phần xem kết quả để biết bài làm của mình. Kéo xuống dưới để bắt đầu.

NỘI DUNG TRẮC NGHIỆM

Câu 1: Khái niệm về phong cách ngôn ngữ báo chí

  • A.Là kiểu diễn đạt dùng trong các văn bản thuộc lĩnh vực truyền thông đại chúng báo in, đài phát thanh, đài truyền hình, internet…như tin tức, phóng sự, bình luận, tiểu phẩm, diễn đàn, thông tin quảng cáo…
  • B.Là ngôn ngữ chủ yếu dùng trong các tác phẩm văn chương, không chỉ có chức năng thông tin mà còn thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của con người, được tổ chức, sắp xếp, lựa chọn, gọt giũa, tinh luyện từ ngôn ngữ thông thường và đạt được giá trị nghệ thuật – thẩm mĩ.
  • C. Là ngôn ngữ được dùng trong giao tiếp thuộc lĩnh vực khoa học, tiêu biểu là trong văn bản khoa học.

Câu 2: Dòng nào sau đây đúng về đặc trưng của phong cách ngôn ngữ báo chí

  • A. Tính thông tin sự kiện, tính ngắn gọn, tính hấp dẫn.
  • B. Tính cá thể, tính xã hội, tính hấp dẫn
  • C. Tính chính xác, tính cá thể, tính hấp dẫn

Câu 3: Chức năng của ngôn ngữ báo chí là gì?

  • A. Là cung cấp tin tức thời sự, phản ánh dư luận và ý kiến của quần chúng. Đồng thời, nêu lên quan điểm, chính kiến của tờ báo nhằm thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
  • B. Là nêu lên quan điểm cá nhân nhằm phân tích cụ thể hơn những đối tượng trong đời sống.
  • C. Là sự miêu tả cụ thể từng chi tiết đối với một chủ thể, nhằm khai thác ưu, nhược điểm của từng chủ thể phục vụ đời sống con người.

Câu 4: Có ý kiến cho rằng:Phạm vi của ngôn ngữ báo chí rộng rãi trên nhiều mặt của hoạt động xã hội. Ngôn ngữ báo chí vì thế không bị giới hạn ở một lĩnh vực nào cả. Có thể nói, nó bao gồm hầu hết các phạm vi sử dụng ngôn ngữ của xã hội. Đúng hay sai?

  • A. Đúng
  • B. Sai

Câu 5: Dòng nào dưới đây đúng về ngữ âm và chữ viết trong cách sử dụng ngôn ngữ báo chí?

  • A. Người nói phát âm theo giọng địa phương nơi mình sinh sống.
  • B. Người nói phải nói chuẩn, rõ ràng, người viết được viết theo ngôn ngữ đời sống
  • C. Người nói phải phát âm rõ ràng, nói chuẩn, tôn trọng người nghe, người viết phải viết đúng quy cách

Câu 6: Có thể sử dụng các biện pháp tu từ trong cách sử dụng ngôn ngữ báo chí hay không?

  • A. Có
  • B. Không

Câu 7:Dòng nào dưới đây đúng về ngữ pháp trong cách sử dụng ngôn ngữ báo chí?

  • A. Câu văn rõ ràng, chính xác, thường dùng một số khuôn mẫu ngữ pháp nhất định.
  • B. Câu văn rõ ràng, chính xác, được sử dụng các mẫu câu rút gọn, giản lược.
  • C. Câu văn ngắn gọn, xúc tích, mang yếu tố địa phương.
  • D. Câu văn dài, cụ thể, mang tính chất miêu tả và biểu cảm.

Câu 8: Bài nào dưới đây không sử dụng phong cách ngôn ngữ báo chí?

  • A. Bản tin thời sự lúc 19h
  • B. Phóng sự ngắn về bão lũ ở miền Trung
  • C. Tiểu phẩm Nhà...chằn tinh
  • D. Tác phẩm Vội vàng - Xuân Diệu

Câu 9: Báo chí tồn tại ở mấy dạng chính?

  • A. 2
  • B. 3
  • C. 4
  • D. 5

Câu 10: Bản tin là gì?

  • A. Là một thể loại của văn bản báo chí nhằm thông tin một cách chân thực, kịp thời những sự kiện thời sự có ý nghĩ trong cuộc sống.
  • B. Là một thể loại của văn học dân gian, được truyền miệng từ đời này sang đời khác.
  • C. Là một thể loại thông báo trong khoa học nghiên cứu.

Câu 11: Phóng sự là gì?

  • A.Là một bản tin có thời gian, địa điểm và sự kiện nhưng được miêu tả, tường thuật chi tiết bằng hình ảnh cụ thể, hấp dẫn, câu văn biểu cảm, từ ngữ sinh động, gây được hứng thú.
  • B. Là một thể loại của văn bản báo chí nhằm thông tin một cách chân thực, kịp thời những sự kiện thời sự có ý nghĩa trong cuộc sống.
  • C. Là một thể loại của văn học trung đại, tuân theo những quy tắc hành văn nhất định.

Câu 12: Bản tin và phóng sự có điểm gì khác nhau?

  • A. Bản tinlà đơn vị cơ sở của thông tin báo chí nhằm truyền đạt, phản ánh “về một sự kiện mới xảy ra được mọi người hoặc một số người quan tâm, nhanh và ngắn gọn. Một bản tin cần có thời gian địa điểm, sự kiện chính xác nhằm cung cấp những tin tức mới cho người đọc.
  • B. Phóng sự cũng là một dạng của bản tin nhưng thuộc dạng bản tin mở rộng có tường thuật chi tiết sự kiện, có hình ảnh minh họa để cung cấp cho người đọc thông tin một cách đầy đủ, sinh động, được viết, được tường thuật bằng nhiều cách khác nhau sau khi đã được điều tra xác minh chi tiết, nguyên nhân quá trình hình thành sự kiện nhân vật một cách chính xác.
  • C. Cả A và B đều đúng
  • D. Cả A và B đều sai

Đọc một bài báo và trả lời câu hỏi sau

"Khởi công dự án mở rộng sân đỗ máy bay tại Cảng hàng không quốc tế Đà Nẵng

QĐND - Ngày 19-10, Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam - CTCP (ACV) tổ chức Lễ khởi công dự án "Mở rộng sân đỗ máy bay về phía bắc giai đoạn II, Cảng hàng không quốc tế (HKQT) Đà Nẵng". Đây là công trình chào mừng Đại hội đại biểu Đảng bộ TP Đà Nẵng lần thứ XXII.

Dự án do ACV làm chủ đầu tư với tổng vốn đầu tư khoảng 420 tỷ đồng; thời gian thi công 11 tháng. Dự án gồm: Xây dựng thêm 4 vị trí đỗ máy bay code C; di chuyển 5 vị trí đỗ máy bay xa đường hạ cất cánh 35R/17L; xây dựng mở rộng sân đỗ máy bay, lề, khu vực dải bảo hiểm. Dự án hoàn thiện và đưa vào khai thác sẽ góp phần tăng năng lực khai thác hoạt động bay của Cảng HKQT Đà Nẵng, góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế - xã hội; tăng cường kết nối giữa Đà Nẵng với các tỉnh, thành trong nước và các nước trong khu vực; đồng thời góp phần bảo đảm quốc phòng - an ninh."

Báo Quân đội Nhân dân

Câu 13: Thể loại của văn bản báo chí của bài báo trên?

  • A. Bản tin
  • B. Phóng sự
  • C. Tiểu phẩm

Câu 14: Nội dung chính của bản tin là gì?

  • A. Đại hội đại biểu Đảng bộ TP Đà Nẵng lần thứ XXII
  • B. Thông tin về Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam
  • C. Dự án mở rộng sân đỗ máy bay tại Cảng hàng không quốc tế Đà Nẵng

Câu 15: Bài báo trên đã cung cấp đầy đủ thông tin theo yêu cầu về một bản tin hay chưa?

  • A. Đủ
  • B. Chưa đủ
Xem đáp án

=> Kiến thức Soạn văn bài: Phong cách ngôn ngữ báo chí

Từ khóa tìm kiếm google:

trắc nghiệm văn 11, câu hỏi trắc nghiệm văn 11, bài phong cách ngôn ngữ báo chí

I. KHÁI QUÁT

1. Khái niệm ngôn ngữ báo chí

– Là ngôn ngữ dùng để thông báo tin tức thời sự trong nước và quốc tế, phản ánh chính kiến của tờ báo và dư luận quần chúng, nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của XH. Tồn tại ở 2 dạng: nói [thuyết minh, phỏng vấn miệng trong các buổi phát thanh/ truyền hình…] & viết [ báo viết ]

– Ngôn ngữ báo chí được dùng ở những thể loại tiêu biểu là bản tin, phóng sự, tiểu phẩm,… Ngoài ra còn có quảng cáo, bình luận thời sự, thư bạn đọc,… Mỗi thể loại có yêu cầu riêng về sử dụng ngôn ngữ.

2. Các phương tiện diễn đạt

– Về từ vựng: sử dụng các lớp từ rất phong phú, mỗi thể loại có một lớp từ vựng đặc trưng.

– Về ngữ pháp: Câu văn đa dạng nhưng thường ngắn gọn, sáng sủa, mạch lạc.

– Về các biện pháp tu từ: Sử dụng nhiều biện pháp tu từ để tăng hiệu quả diễn đạt.

3. Phong cách ngôn ngữ báo chí

Phong cách ngôn ngữ báo là khuôn mẫu thích hợp để xây dựng lớp văn bản thể hiện vai của người tham gia giao tiếp trong lĩnh vực báo chí. Đó là vai của những nhà báo, người đưa tin, người cổ động, người quảng cáo.

4. Phân loại phong cách ngôn ngữ báo chí

– Dạng viết: bài báo, mẩu tin, mẩu quảng cáo…

– Dạng nói: bản tin hàng ngày, quảng cáo, thông tin…

Mục lục

  • 1 Từ nguyên
  • 2 Định nghĩa
    • 2.1 Khả năng tâm trí, cơ quan hay bản năng
    • 2.2 Hệ thống biểu tượng hình thức
    • 2.3 Công cụ giao tiếp
    • 2.4 Các độc đáo của ngôn ngữ con người
  • 3 Nguồn gốc
  • 4 Nghiên cứu
    • 4.1 Phân ngành
    • 4.2 Thời kỳ đầu
    • 4.3 Ngôn học hiện đại
  • 5 Kiến trúc sinh lý và thần kinh của ngôn ngữ và lời nói
    • 5.1 Bộ não
    • 5.2 Giải phẫu lời nói
  • 6 Phương thức biểu đạt
  • 7 Cấu trúc
    • 7.1 Ngữ nghĩa
    • 7.2 Âm thanh và ký hiệu
    • 7.3 Ngữ pháp
      • 7.3.1 Phạm trù ngữ pháp
      • 7.3.2 Lớp từ
      • 7.3.3 Hình thái
      • 7.3.4 Cú pháp
    • 7.4 Loại hình và sự phổ quát
  • 8 Ngôn ngữ trong bối cảnh xã hội
    • 8.1 Tiếp thu ngôn ngữ
    • 8.2 Văn hóa
    • 8.3 Chữ viết và biết chữ
    • 8.4 Biến đổi
  • 9 Sự đa dạng ngôn ngữ
    • 9.1 Ngôn ngữ và phương ngữ
    • 9.2 Các ngữ hệ của thế giới
    • 9.3 Ngôn ngữ bị đe dọa
  • 10 Xem thêm
  • 11 Chú thích
  • 12 Trích dẫn
    • 12.1 Nguồn tham khảo
  • 13 Liên kết ngoài

Từ nguyênSửa đổi

Trong tiếng Việt, "ngôn ngữ" là phiên âm Hán-Việt của cặp Hán tự 言語 (phồn thể, bính âm Quan thoại chuẩn: yányǔ). Trong tiếng Hán thượng cổ, hai từ 言語 được phát âm là *ŋan ŋaʔ (đọc gần như "ngan nga" có IPA Hà Nội là: [ŋaːn˧˧ ŋaː˧˧]) theo phục nguyên của Thượng Phương (2003).[8] Schuessler (2007) cho rằng 言 (OC: *ŋan) là danh từ phái sinh của động từ 語 (OC: *ŋaʔ, nghĩa là 'nói') vì chứa hậu tố *-n.[9] Một từ khác dùng để chỉ ngôn ngữ nói trong tiếng Việt là "tiếng", bắt nguồn từ "tiếng" của tiếng Việt trung đại và là một từ mượn có gốc Hán trung cổ, 聲 (MC: ɕiᴇŋ) 'âm thanh'.

Trong tiếng Anh, "language" 'ngôn ngữ' được vay mượn từ language 'ngôn ngữ' của tiếng Pháp cổ (âm Pháp cổ là lanˈɡʷadʒə), bắt nguồn từ lingua 'lưỡi' của tiếng Latin, chính nó lại bắt nguồn từ *dn̥ǵʰwéh₂s 'lưỡi, lời nói, ngôn ngữ' của tiếng Ấn-Âu nguyên thủy.[10]

Định nghĩaSửa đổi

Từ "ngôn ngữ" còn được sử dụng để chỉ mật mã, cipher và các thể loại ngôn ngữ nhân tạo, ví dụ như ngôn ngữ máy tính dùng trong lập trình. Nếu hiểu theo nghĩa này, ngôn ngữ sẽ là một hệ thống các dấu hiệu nhằm mục đích mã hóa và giải mã thông tin. Bài viết này chỉ tập trung vào các tính chất của ngôn ngữ loài người tự nhiên được nghiên cứu bởi ngành ngôn ngữ học.

"Ngôn ngữ", trong vai trò là đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học, có hai nghĩa chính: một khái niệm trừu tượng và một hệ thống ngôn ngữ cụ thể, ví dụ: "tiếng Việt". Nhà ngôn ngữ học Thụy Sĩ Ferdinand de Saussure, người có công định hình nghiên cứu ngôn ngữ học hiện đại, là người đầu tiên phân biệt rõ ràng sự khác biệt đó. Ông sử dụng từ language để chỉ khái niệm trừu tượng, từ langue để chỉ một ví dụ cụ thể của một hệ thống ngôn ngữ và từ parole để chỉ lối sử dụng lời nói trong một ngôn ngữ cụ thể.[11]

Khi nói về ngôn ngữ như là một khái niệm chung, nhiều định nghĩa có thể được sử dụng để nhấn mạnh các khía cạnh khác nhau của hiện tượng này.[12] Những định nghĩa này cũng kéo theo những phương pháp tiếp cận nghiên cứu và sự thấu hiểu về ngôn ngữ theo các cách khác nhau, dẫn đến những trường phái lý thuyết ngôn ngữ khác nhau hoặc xung khắc nhau.[13] Các cuộc tranh luận về bản chất và nguồn gốc ngôn ngữ đã tồn tại từ thời cổ đại. Các nhà triết học Hy Lạp như Gorgias và Plato đã hoài nghi về mối quan hệ giữa từ ngữ, khái niệm và thực tế. Gorgias cho rằng ngôn ngữ không thể đại diện cho trải nghiệm khách quan lẫn trải nghiệm con người, và rằng giao tiếp và chân lý đều bất khả thi. Plato cho rằng ta có thể giao tiếp được vì ngôn ngữ đại diện cho các ý tưởng và khái niệm tồn tại độc lập khỏi ngôn ngữ, và tồn tại trước cả ngôn ngữ.[14]

Trong những cuộc tranh luận về nguồn gốc loài người thời kỳ Khai sáng, việc suy đoán về nguồn gốc ngôn ngữ đã trở nên rất thịnh hành. Các nhà tư tưởng như Rousseau và Herder cho rằng ngôn ngữ bắt nguồn từ sự biểu đạt cảm xúc theo bản năng, và nó ban đầu gần với âm nhạc và thơ ca hơn là logic và tư duy lý trí. Các nhà triết học duy lý như Kant và Descartes lại có quan điểm ngược lại. Vào khoảng đầu thế kỷ 20, các nhà tư tưởng bắt đầu băn khoăn về vai trò của ngôn ngữ trong việc hình thành trải nghiệm của con người về thế giới - đặt câu hỏi liệu ngôn ngữ có phản ánh đơn giản cấu trúc khách quan của thế giới, hay liệu ngôn ngữ tạo ra những khái niệm mà nó áp đặt lên trải nghiệm về thế giới khách quan của chúng ta. Điều này lại dẫn đến câu hỏi liệu các vấn đề triết học có thực sự trước hết phải là vấn đề ngôn học hay không. Sự trỗi dậy của quan điểm cho rằng ngôn ngữ đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo ra và lưu thông các khái niệm, và nghiên cứu triết học về cơ bản là nghiên cứu ngôn ngữ, gắn liền với thứ được gọi là bước ngoặt ngôn học (linguistic turn) và các nhà triết học như Wittgenstein của triết học thế kỷ 20. Những cuộc tranh luận về ngôn ngữ liên quan đến ý nghĩa và tham chiếu, nhận thức và ý thức vẫn đang rất sôi nổi cho đến ngày nay.[15]

Khả năng tâm trí, cơ quan hay bản năngSửa đổi

Một định nghĩa coi ngôn ngữ chủ yếu là khả năng tâm trí (mental faculty) cho phép con người thực hiện hành vi ngôn ngữ: để học ngôn ngữ, để nói và hiểu lời nói. Định nghĩa này nhấn mạnh tính phổ quát của ngôn ngữ ở loài người và cơ sở sinh học của khả năng sử dụng ngôn ngữ như là một sự phát triển độc đáo của não người. Những người ủng hộ quan điểm này cho rằng sự tiếp thu ngôn ngữ có tính bẩm sinh ở loài người, khẳng định điều này là hiển nhiên, vì tất cả trẻ em bình thường lớn lên trong một môi trường có tiếp xúc với ngôn ngữ đều có thể tiếp thu ngôn ngữ mà chẳng cần hướng dẫn. Ngôn ngữ thậm chí có thể phát triển một cách tự nhiên trong môi trường con người sống và lớn lên cùng nhau mà không có ngôn ngữ chung; ví dụ, các ngôn ngữ Creole và ngôn ngữ ký hiệu Nicaragua. Quan điểm này bắt nguồn từ thời các triết gia Immanuel Kant và René Descartes; quan điểm này xuất hiện trong các thuyết ngữ pháp phổ quát của Noam Chomsky, và thuyết bẩm sinh cực độ của nhà triết học Mỹ Jerry Fodor. Định nghĩa này thường được sử dụng trong các nghiên cứu ngôn ngữ trong khuôn khổ khoa học nhận thức và ngôn ngữ học thần kinh.[16][17]

Hệ thống biểu tượng hình thứcSửa đổi

Một định nghĩa khác coi ngôn ngữ là một hệ thống hình thức (formal system) các biểu tượng tuân theo các quy tắc ngữ pháp kết hợp để truyền tải một ý nghĩa. Định nghĩa này nhấn mạnh rằng ngôn ngữ con người có thể được mô tả như một hệ thống kết cấu đóng bao gồm các quy tắc ánh xạ các dấu hiệu cụ thể tới các ý nghĩa cụ thể.[18] Quan điểm cấu trúc này được Ferdinand de Saussure đầu tiên đề xướng,[19] và thuyết cấu trúc (structuralism) của ông đã trở thành nền móng của nhiều phương pháp tiếp cận ngôn ngữ sau đó.[20]

Giới ủng hộ lý thuyết của Saussure về ngôn ngữ chủ trương đề ra một cách tiếp cận chính thức để nghiên cứu cấu trúc ngôn ngữ bằng cách xác định các yếu tố cơ bản rồi trình bày các quy tắc kết hợp các yếu tố đó nhằm hình thành các từ và câu hoàn chỉnh. Noam Chomsky, cha đẻ của thuyết ngữ pháp tạo sinh (generative grammar), là người ủng hộ nhiệt tình lý thuyết này. Chomsky định nghĩa ngôn ngữ là sự xây dựng các câu cú có thể được tạo ra bằng ngữ pháp chuyển đổi (transformational grammar).[21] Chomsky cho rằng các quy tắc này là đặc điểm bẩm sinh của tâm trí con người và tạo thành các nguyên lý cơ bản của ngôn ngữ.[22] Khái niệm ngữ pháp chuyển đổi cũng thường xuyên được sử dụng trong ngành logic học, ngôn ngữ học hình thức và ngôn ngữ học máy tính áp dụng.[23][24]

Công cụ giao tiếpSửa đổi

Một cuộc hội thoại sử dụng ngôn ngữ ký hiệu Mỹ

Một định nghĩa khác coi ngôn ngữ là một hệ thống giao tiếp cho phép con người trao đổi phát biểu lời nói (verbal) hoặc biểu tượng (symbolic). Định nghĩa này nhấn mạnh chức năng xã hội của ngôn ngữ và con người sử dụng nó để bộc lộ bản thân và thao túng các đối tượng trong môi trường. Các lý thuyết chức năng của ngữ pháp giải thích các cấu trúc ngữ pháp theo chức năng giao tiếp của chúng, và cho rằng các cấu trúc ngữ pháp của ngôn ngữ là kết quả của một quá trình thích ứng trong đó ngữ pháp được hiệu chỉnh nhằm phục vụ nhu cầu giao tiếp của người sử dụng.[25][26]

Quan điểm này gắn liền với việc nghiên cứu ngôn ngữ trong khuôn khổ các ngành ngữ dụng học, ngôn ngữ học nhận thức, ngôn ngữ học tương tác, ngôn ngữ học xã hội và nhân học ngôn ngữ. Các lý thuyết chức năng thường coi ngữ pháp như những hiện tượng động, như những cấu trúc luôn trong quá trình thay đổi khi người nói sử dụng. Quan điểm này đặt trọng tâm nghiên cứu ở ngành loại hình học ngôn ngữ (linguistic typology), tức là phân loại ngôn ngữ theo đặc điểm cấu trúc, do có thể chỉ ra rằng sự ngữ pháp hóa (grammaticalization) có xu hướng đi theo quỹ đạo phụ thuộc một phần vào loại hình học.[24] Trong triết học ngôn ngữ, quan điểm coi ngữ dụng là trung tâm của ngôn ngữ và ý nghĩa thường gắn liền với các tác phẩm của Wittgenstein và các triết gia ngôn ngữ thông thường như J.L. Austin, Paul Grice, John Searle và W.O. Quine.[27]

Các độc đáo của ngôn ngữ con ngườiSửa đổi

Nhiều đặc điểm khác biệt của ngôn ngữ con người đã được Charles Hockett mô tả và được ông gọi là các đặc điểm thiết kế (design feature)[28] tách biệt ngôn ngữ con người khỏi các hệ thống giao tiếp ở các loài vật khác.

Các hệ thống giao tiếp ở các loài động vật như ong hoặc vượn là hệ thống đóng bao gồm một số lượng hữu hạn (thường rất hạn chế) các ý tưởng khả thi có thể diễn đạt.[29] Ngược lại, ngôn ngữ con người là hệ thống mở và năng suất, tức là nó cho phép con người tạo ra một loạt các phát biểu (utterance) từ một tập hợp hữu hạn các yếu tố (element) và cho phép con người tạo ra các từ và câu mới. Điều này khả thi bởi vì ngôn ngữ con người dựa trên một mã kép (dual code), trong đó một số lượng hữu hạn các yếu tố vô nghĩa ban đầu (ví dụ: âm thanh, chữ cái hoặc cử chỉ) có thể được kết hợp để tạo thành vô số đơn vị ý nghĩa lớn hơn (từ và câu).[30] Tuy nhiên, một nghiên cứu đã chứng minh rằng loài chim Pomatostomus ruficeps ở Úc có khả năng sử dụng các yếu tố âm giống nhau nhưng theo cách dàn xếp khác nhau để tạo ra hai âm thanh khác biệt về chức năng.[31] Ngoài ra, loài chim Turdoides bicolor có khả năng tạo ra hai giọng hót khác biệt về chức năng được cấu thành từ cùng một loại âm, chỉ có thể được phân biệt bằng số lượng các yếu tố âm lặp lại.[32]

Một số loài động vật đã được chứng minh là có khả năng tiếp thu các hình thức giao tiếp thông qua học tập xã hội: ví dụ như một con tinh tinh lùn tên là Kanzi đã học cách thể hiện bản thân bằng cách sử dụng một bộ từ vựng tượng trưng (xem tiếng Yerkes). Tương tự, nhiều loài chim và cá voi học các tiếng kêu âm hưởng bằng cách bắt chước các thành viên khác trong đàn của chúng. Tuy đúng là một số loài vật có thể tiếp thu số lượng lớn từ và ký hiệu,[chú thích 2] khả năng tiếp thu của chúng vẫn còn kém xa một đứa bé loài người năm 4 tuổi trung bình và chúng vẫn chưa tạo ra bất kỳ thứ gì tương tự như ngữ pháp phức tạp ở ngôn ngữ con người.[34]

Ngôn ngữ con người khác biệt với các hệ thống giao tiếp động vật ở chỗ: nó sở hữu các đặc điểm ngữ pháp và ngữ nghĩa, chẳng hạn như danh từ và động từ, thì hiện tại và thì quá khứ, được sử dụng để truyền đạt những ý nghĩa cực kỳ phức tạp.[34] Ngôn ngữ con người còn độc đáo với tính đệ quy: ví dụ, một cụm danh từ có thể chứa một cụm danh từ khác (kiểu như "[môi [con tinh tinh]]") hoặc một mệnh đề có thể chứa một mệnh đề khác (kiểu như "[Tôi thấy [con chó đang chạy]]").[4] Ngôn ngữ con người là hệ thống giao tiếp tự nhiên duy nhất được biết mà khả năng thích ứng có thể coi là độc lập về phương thức (modality independent). Điều này tức là ngôn ngữ có thể được sử dụng không chỉ để giao tiếp thông qua một kênh hoặc phương tiện duy nhất. Ví dụ, ngôn ngữ nói sử dụng phương thức thính giác, trong khi ngôn ngữ ký hiệu và chữ viết sử dụng phương thức trực quan, còn chữ nổi sử dụng phương thức xúc giác.[35]

Mục lục

  • 1 Lịch sử
    • 1.1 Trước thời Pháp thuộc
    • 1.2 Thời Pháp thuộc
    • 1.3 Sau năm 1945
  • 2 Phân bố
  • 3 Phương ngữ
  • 4 Ngữ âm
    • 4.1 Nguyên âm
    • 4.2 Phụ âm
    • 4.3 Thanh điệu
  • 5 Ngữ pháp
  • 6 Từ vựng
    • 6.1 Từ thuần Việt
    • 6.2 Từ Hán Việt
    • 6.3 Từ có nguồn gốc Ấn–Âu
    • 6.4 Từ có nguồn gốc tiếng dân tộc thiểu số
    • 6.5 Từ hỗn chủng
  • 7 Chữ viết
    • 7.1 Thư pháp
    • 7.2 Bộ gõ tiếng Việt và giao tiếp tiếng Việt qua mạng
  • 8 Chú thích
  • 9 Tham khảo
  • 10 Liên kết ngoài

Lịch sử

Từ vựng tiếng Thái, tiếng Việt, tiếng Khmer, tiếng Chăm, tiếng Lào, tiếng Môn, tiếng Pali,... trong sách của John Crawfurd xuất bản năm 1828.

Theo A. G. Haudricourt giải thích từ năm 1954, nhóm ngôn ngữ Việt-Mường ở thời kỳ khoảng đầu Công nguyên là những ngôn ngữ hay phương ngữ không thanh điệu. Về sau, qua quá trình giao thoa với Hoa ngữ và nhất là với các ngữ thuộc ngữ hệ Tai-Kadai vốn có hệ thống thanh điệu phát triển cao hơn, hệ thống thanh điệu trong tiếng Việt xuất hiện và có diện mạo như ngày nay, theo quy luật hình thành thanh điệu. Sự xuất hiện các thanh điệu, bắt đầu khoảng thế kỷ thứ VI (thời kỳ Bắc thuộc trong lịch sử Việt Nam) với 3 thanh điệu và phát triển thêm vào khoảng thế kỷ XII (nhà Lý) với 6 thanh điệu. Sau đó một số phụ âm đầu biến đổi cho tới ngày nay. Trong quá trình biến đổi, các phụ âm cuối rụng đi làm thay đổi các kết thúc âm tiết và phụ âm đầu chuyển từ lẫn lộn vô thanh với hữu thanh sang tách biệt.

Ví dụ[9] của A.G. Haudricourt.

Đầu Công nguyên
(vô thanh điệu)
Thế kỷ VI
(3 thanh)
Thế kỷ XII
(6 thanh)
Ngày nay
pa pa pa ba
sla, hla hla la la
ba ba
la la
pas, pah pả bả
slas, hlah hlà lả lả
bas, bah
las, lah
pax, paʔ
slax, hlaʔ hlá
bax, baʔ pạ bạ
lax, laʔ lạ lạ

Trước thời Pháp thuộc

Tiếng Việt là ngôn ngữ dùng trong sinh hoạt giao tiếp của dân thường từ khi lập nước. Giai đoạn từ đầu Công nguyên, tiếng Việt có những âm không có trong tiếng Trung. Từ khi tiếng Trung có ảnh hưởng tới Việt Nam thông qua các con đường và bao gồm các giai đoạn khác nhau, tiếng Việt bắt đầu có những âm vay mượn từ tiếng Trung. Các tác giả Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu và Hoàng Trọng Phiến trong cuốn sách Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt chia quá trình tiếp xúc Hán – Việt thành 2 giai đoạn chính:

  • Giai đoạn từ đầu Công nguyên đến đầu thời nhà Đường (đầu thế kỷ VIII), từ vựng tiếng Hán ảnh hưởng tới tiếng Việt trong giai đoạn này gọi là từ Hán cổ;
  • Giai đoạn từ thời nhà Đường (thế kỷ VIII – thế kỷ X) trở về sau, từ vựng tiếng Hán ảnh hưởng tới tiếng Việt trong giai đoạn này gọi là từ Hán Việt.

Từ Hán cổ và từ Hán Việt gọi chung là từ gốc Hán.

1 số từ ngữ Hán cổ có thể kể đến như "đầu", "gan", "ghế", "ông", "bà", "cô", "chè", "ngà", "chén", "chém", "chìm", "buồng", "buồn", "buồm", "mùi", "mùa"... Từ Hán cổ là những từ gốc Hán du nhập vào tiếng Việt từ lâu hơn, đã đồng hoá mạnh hơn, nên những từ này hiện nay là từ thông thường trong hoạt động xã hội đối với người Việt.

Hệ thống từ Hán Việt trong tiếng Việt bằng cách đọc các chữ Hán theo ngữ âm hiện có của tiếng Việt (tương tự như người Nhật Bản áp dụng kanji đối với chữ Hán và katakana với các tiếng nước ngoài khác). Hiện nay có 1945 chữ Hán thông dụng trong tiếng Nhật, cũng có khoảng 2000 từ Hán–Hàn thông dụng). Số lượng từ vựng tiếng Việt có thêm hàng loạt các yếu tố Hán–Việt. Như là "chủ", "ở", "tâm", "minh", "đức", "thiên", "tự do",... giữ nguyên nghĩa chỉ khác cách đọc; hay thay đổi vị trí như "nhiệt náo" thành "náo nhiệt", "thích phóng" thành "phóng thích", "đảm bảo" thành "bảo đảm"...; hoặc rút gọn như "thừa trần" thành "trần" (trong trần nhà), "lạc hoa sinh" thành "lạc" (trong củ lạc, còn gọi là đậu phộng)...; hoặc đọc chệch đi như sáp nhập (chữ Hán: 插入) thành sát nhập, thống kế (統計) thành thống kê, để kháng (抵抗) thành đề kháng, chúng cư (眾居) thành chung cư, bảo cô (保辜) thành báo cô, vãng cảnh (往景) thành vãn cảnh (晚景), khuyến mãi (勸買) thành khuyến mại (勸賣), vân vân; hay đổi khác nghĩa hoàn toàn như "phương phi" trong tiếng Hán có nghĩa là "hoa cỏ thơm tho" thì trong tiếng Việt lại là "béo tốt", "bồi hồi" trong tiếng Hán nghĩa là "đi đi lại lại" sang tiếng Việt thành "bồn chồn, xúc động"... Mặt khác, người Trung Quốc gọi là Thái Sơn, Hoàng Hà, cổ thụ... thì người Việt lại đọc là núi Thái Sơn, sông Hoàng Hà, cây cổ thụ (mặc dù sơn = núi, hà = sông, thụ = cây)... Do tính quy ước của ngôn ngữ mà phần nào đó các cách đọc sai khác với tiếng Hán vẫn có ai đó chấp nhận và sử dụng trong khi các nhà nghiên cứu ngôn ngữ tiếng Việt hiện nay cũng như các cơ quan, các cấp quản lý, tổ chức xã hội – nghề nghiệp lẫn các nhà khoa học Việt Nam có thể chưa tìm được tiếng nói chung trong việc chuẩn hoá cách sử dụng tên riêng và từ vựng mượn từ tiếng nước ngoài.[10] Bên cạnh đó, có những từ có thể đã dùng sai như "quan ngại" dùng và hiểu như "lo ngại", "vấn nạn" hiểu là "vấn đề nan giải", "vô hình trung" thì viết thành "vô hình trung" hay "vô hình dung", "việt dã" là "chạy dài"; "trứ tác" dùng như "sáng tác",[11] "phong thanh" dùng như "phong phanh", "bàng quan" dùng như "bàng quang", "đào ngũ" dùng là "đảo ngũ", "tham quan" thành "thăm quan", "xán lạn" thành "sáng lạng"…

Theo ước lượng của các nhà nghiên cứu, từ Hán Việt chiếm khoảng trên dưới 70% vốn từ trong phong cách chính luận, khoa học (Maspéro thì cho rằng, chúng chiếm hơn 60% lượng từ tiếng Việt).[10][11] Tác giả Lê Nguyễn Lưu trong cuốn sách Từ chữ Hán đến chữ Nôm thì cho rằng về lĩnh vực chuyên môn và khoa học tỉ lệ này có thể lên đến 80% nhưng khi nhận xét về văn ngữ trong một cuốn tiểu thuyết thì chỉ còn 12,8%, kịch nói rút xuống còn 8,9% và ngôn ngữ nói chuyện hằng ngày còn thấp hơn nữa.[12]

Các từ và từ tố Hán Việt tạo ra các từ ngữ mới cho tiếng Việt như sĩ diện, phi công, bao gồm, sống động, sinh đẻ, vân vân. Trong khi tiếng Việt gọi là phát thanh (發聲) thì tiếng Hán lại gọi là 廣播 quảng bá; tiếng Việt gọi là truyền hình (傳形) thì tiếng Hán gọi là 電視 điện thị; tiếng Việt gọi là thành phố (城鋪), thị xã (市社) thì tiếng Hán gọi là 市 thị. Tiếng Việt đã lợi dụng được những thành tựu ngôn ngữ trong tiếng Hán để tự cải tiến mình.

Kể từ đầu thế kỷ thứ XI, Nho học phát triển, việc học cổ văn gia tăng, tầng lớp trí thức mở rộng tạo tiền đề cho một nền văn chương của người Việt bằng cổ văn phát triển với các áng văn thư ví dụ như Nam quốc sơn hà bên sông Như Nguyệt (sông Cầu).

Cùng thời gian này, ai đó xây riêng 1 hệ thống chữ viết cho người Việt theo nguyên tắc ghi âm tiết phát triển, đó là chữ Nôm. Để tiện cho việc học chữ Hán và chữ Nôm của người Việt, Ngô Thì Nhậm (1746–1803) đã biên soạn cuốn sách Tam thiên tự giải âm (còn gọi là Tam thiên tự, Tự học toản yếu). Tam thiên tự giải âm chỉ lược dạy 3000 chữ Hán, Nôm thông thường, đáp ứng nhu cầu cần thiết, nhớ chữ, nhớ nghĩa từng chữ, mỗi câu 4 chữ. Hiệp vần cũng có điểm đặc biệt, tức là vần lưng (yêu vận, vần giữa câu). Tiếng thứ 4 câu đầu hiệp với tiếng thứ hai câu dưới rồi cứ thế mãi đến 3000 chữ, 750 câu. Ví dụ: Thiên – trời, địa – đất, cử – cất, tồn – còn, tử – con, tôn – cháu, lục – sáu, tam – ba, gia – nhà, quốc – nước, tiền – trước, hậu – sau, ngưu – trâu, mã – ngựa, cự – cựa, nha – răng, vô – chăng, hữu – có, khuyển – chó, dương – dê,... Trần Văn Giáp đánh giá đây tuy chỉ là quyển sách dạy học vỡ lòng về chữ Hán như đã nêu ở trên nhưng thực ra cũng có thể coi nó chính là sách Từ điển Hán Việt thông thường và phổ biến ở cuối thế kỷ XVIII, cùng thời với các sách Chỉ nam ngọc âm, Chỉ nam bị loại và xuất hiện trước các sách Nhật dụng thường đàm, Thiên tự văn và Đại Nam quốc ngữ.[13]

Thời Pháp thuộc

Từ khi Pháp xâm lược Việt Nam vào nửa cuối thế kỷ thứ XIX, tiếng Pháp dần thay thế vị trí của cổ văn, trở thành ngôn ngữ chính thức trong giáo dục, hành chính và ngoại giao. Chữ Quốc ngữ (chữ Latinh tiếng Việt), do một số nhà truyền giáo châu Âu tạo ra, đặc biệt là hai tu sĩ người Bồ Đào Nha Gaspar do Amaral và Antonio Barbosa, với mục đích ban đầu là dùng ký tự Latinh ghi lại tiếng Việt, được chính quyền Pháp thuộc bảo hộ sử dụng nhằm thay thế chữ Hán với chữ Nôm để đồng văn tự với tiếng Pháp, dần dần sử dụng phổ biến trong xã hội cùng tiếng Pháp.

Gia Định báo là tờ báo đầu tiên mà phát hành bằng chữ Quốc ngữ tại Nam Kỳ vào năm 1865, đặt nền móng cho sự phát triển và xu hướng của chữ Quốc ngữ như là chữ viết chính của tiếng Việt sau này.

Mặt khác, những khái niệm chính trị xã hội, kỹ thuật mới dẫn đến việc nhập các thuật ngữ, từ ngữ mới. Có 2 xu hướng về cách thức nhập thuật ngữ là:

  1. Nhập từ phiên âm của ngôn ngữ phương Tây, chủ yếu là từ tiếng Pháp và có thể sử dụng bởi tầng lớp thị dân có thể vốn không thạo chữ Hán [14] như ghi đông, phanh, lốp, găng, pê đan, phuốc tăng (nay gọi là phuộc),...
  2. Nhập qua âm Hán Việt của chữ Hán từ tiếng Trung và tiếng Nhật (từ Hán-Việt gốc Nhật) như chính đảng, kinh tế, giai cấp, bán kính, câu lạc bộ,... Trong giới văn hoa thì các tên riêng phương tây mà dùng là từ Hán Việt như Á Căn Đình (Argentina), Nã Phá Luân (Napoleon),... hay Tòa Bạch Ốc (Nhà Trắng),...

Sau năm 1945

Tiếng Việt thay thế hoàn toàn tiếng Pháp và cổ văn, trở thành ngôn ngữ làm việc cấp quốc gia duy nhất của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, sự phát triển tiếng Việt trong chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc và Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam diễn ra có khác nhau, chủ yếu ở sử dụng từ Hán-Việt và phiên âm tên trong tiếng nước ngoài.

Tại miền Bắc có xu hướng chuyển sang sử dụng từ thuần Việt thay thế từ Hán Việt cùng nghĩa còn ở miền Nam thì vẫn giữ nguyên việc sử dụng từ Hán Việt như thời trước 1945. Ví dụ như miền Nam vẫn giữ tên "Ngân hàng Quốc gia" trong khi miền Bắc đổi thành "Ngân hàng Nhà nước" (1960), miền Nam gọi là "phi trường" thì miền Bắc gọi là "sân bay", miền Nam gọi là "Ngũ Giác Đài" thì miền Bắc gọi là "Lầu Năm Góc", miền Nam gọi là "Đệ nhứt thế chiến" thì miền Bắc gọi là "Chiến tranh thế giới thứ nhất", miền Nam gọi là "hỏa tiễn" thì miền Bắc gọi là "tên lửa", miền Nam gọi là "thủy quân lục chiến" còn miền Bắc đổi thành "lính thủy đánh bộ",... Ngược lại ở miền Bắc lại dùng một số danh từ bắt nguồn từ tiếng Hán như "tham quan", "sự cố", "nhất trí", "đăng ký", "đột xuất", "vô tư",... thì miền Nam lại dùng những chữ "thăm viếng", "trở ngại/trục trặc", "đồng lòng", "ghi tên", "bất ngờ", "thoải mái",...

Việc phiên âm tên tiếng nước ngoài thì ở miền Nam vẫn theo cách trước 1945 là dùng tên theo từ Hán Việt, như Băng đảo (Iceland), Úc Đại Lợi (Australia), Hung Gia Lợi (Hungary), Ba Tây (Brazil),... Tại miền Bắc thì chuyển sang phiên âm trực tiếp thành Ai-xơ-len, Ô-xtrây-li-a, Hung-ga-ri,... và trừ ra các tên Hán Việt của một số đối tượng phổ biến, ví dụ như "Pháp", "Đức", "Anh", "Nga",... Cá biệt (có thể là duy nhất) 1 tên tiếng Trung là Zhuang (người Tráng) "phiên âm trực tiếp" thành Choang trong tên gọi chính thức "Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây".[15][note 1]

Sau khi Việt Nam thống nhất vào năm 1975, quan hệ Bắc-Nam đã kết nối lại. Gần đây, sự phổ biến hơn của các phương tiện truyền thanh và truyền hình trên toàn quốc góp phần chuẩn hóa tiếng Việt về chính tả và âm điệu. Từ Hán Việt và từ thuần Việt được người Việt sử dụng song song tùy thuộc ngữ cảnh hay văn phong. Sự di cư để học tập và làm việc giữa các vùng miền giúp mọi người ở Việt Nam được tiếp xúc và hiểu nhiều hơn với các phương ngữ tiếng Việt. Tuy nhiên với sự tiến triển của internet và toàn cầu hóa, ảnh hưởng của tiếng Anh ngày càng lớn, người Việt hiện nay thường viết từ ngoại lai với xu hướng viết theo tiếng Anh (như video) thay vì viết theo âm đọc của tiếng Việt (vi-đê-ô) vì cùng dùng chữ Latinh, và đang có thói quen dùng từ vựng hay tên dịch sang tiếng Anh nhiều hơn, có khi lấn át các từ vựng hay tên tiếng Việt sẵn có hoặc đã dịch có nghĩa (ví dụ như manga Kimetsu no Yaiba đã được phát hành dưới tên tiếng Việt là "Thanh gươm diệt quỷ" nhưng báo chí Việt lại dùng tên tiếng Anh "Demon Slayer" khi viết bài[16]). Những người làm việc ở mảng báo chí và phương tiện truyền thông đôi khi đưa tên riêng nước ngoài đưa vào tiếng Việt lại thiếu tìm hiểu và chọn lọc (phát âm sai dựa theo âm tiếng Anh thay vì từ âm của ngôn ngữ gốc, dịch trung gian tên riêng qua tiếng Anh hoặc tiếng Trung), khiến mọi người theo dõi cũng dùng sai theo, trải qua một thời gian dài thì "sai nhiều thành quen" nên rất khó sửa lại đúng tương ứng với ngôn ngữ gốc được. Ví dụ: truyền thông Việt Nam hay dùng nguồn tin tiếng Anh thay vì tiếng Nhật, làm cho tên người Nhật Bản vốn theo thứ tự "họ trước tên sau" trong tiếng Nhật lại bị viết đảo ngược thành "tên trước họ sau" vào trong tiếng Việt (mặc dù không có luật bắt buộc đảo ngược họ tên), khiến thủ tướng Suga Yoshihide bị viết và gọi ngược thành "Yoshihide Suga"[17]; diễn viên Dilraba Dilmurat hay bị gọi là "Địch Lệ Nhiệt Ba" dù cô là người Uyghur, tên của cô là chuẩn tiếng Uyghur không thuộc vùng văn hóa Đông Á (nghĩa là vốn không thể viết bằng chữ Hán), nhưng truyền thông Việt lại dùng tên theo âm Hán-Việt của chữ Hán qua âm Quan thoại mà người Trung Quốc phiên âm tên cô; huấn luyện viên Park Hang-seo khi mới được bổ nhiệm huấn luyện tuyển Việt Nam, hay bị truyền thông Việt đọc tên là "Pác Hang Xeo"[18][19], phải có bài đính chính và mất một thời gian thì cách đọc mới được sửa lại thành "Pắc Hang-so" hay "Pắc Hang-sơ" cho đúng âm tiếng Hàn[19].