Đâu là sự khác biệt giữa ngư dân Na Uy xưa và nay?

Jens-Einar Bjrks Johnsen, sống trong cộng đồng Btsfjord gần mũi cực bắc của Na Uy, cho biết anh chưa bao giờ đặt câu hỏi về nghề nghiệp mà cô muốn theo đuổi từ khi còn nhỏ. "Tôi đã biết mình muốn trở thành ngư dân trước khi tốt nghiệp tiểu học. "

Ông nội của Jens-Einar là một ngư dân đến từ Lofoten, một vùng đánh cá nổi tiếng khác của Na Uy, và giống như rất nhiều người khác, ông chọn dành cả cuộc đời để kiếm sống nơi đầu nguồn đại dương.

Ông của Jens-Einar sau đó đã quyết định sống lâu dài ở Btsfjord, mặc dù ý định ban đầu là đánh cá ở đó theo mùa. Công việc này vẫn tiếp tục và Jens-Einar hiện đại diện cho thế hệ thứ ba của gia đình

Đâu là sự khác biệt giữa ngư dân Na Uy xưa và nay?
Một lồng cá hồi và một chiếc thuyền đánh cá có thể được nhìn thấy ở Bắc Na Uy. Hội đồng Hải sản Na Uy

Dù đã nghỉ hưu cách đây 9 năm và hiện đã 74 tuổi nhưng cha của Jens-Einar vẫn tích cực tham gia giúp đỡ ông trong công việc hàng ngày. Khi Jens-Einar trở lại bến cảng với mẻ cá trong ngày, cha anh sẽ đợi để hỗ trợ dỡ hàng.

Jens-Einar cho biết ở tuổi của ông, cha tôi vẫn có thể làm việc 12 đến 14 giờ mỗi ngày nếu ông muốn.

Bất chấp thời gian dài, điều kiện làm việc đầy thách thức và đôi khi thời tiết không thuận lợi, ngư dân Na Uy có ý thức mạnh mẽ về truyền thống gia đình

Mặc dù Jens-Einar đánh giá cao sự giúp đỡ của cha mình, nhưng anh chia sẻ rằng cảm xúc của anh không thể diễn tả được. Cha tôi luôn phàn nàn rằng thế hệ ngư dân của tôi làm việc quá dễ dàng vì chúng tôi có thể giao hàng tại trung tâm chế biến và về nhà, trong khi trước đây, ông luôn phải tự mình mổ cá. Đúng là cuộc sống hiện đại đơn giản hơn

Mặc dù cả hai ông. Những đứa con đang lớn của Jens-Einar đã cùng anh đi biển, cả hai vẫn chưa nghĩ đến việc đi câu cá. Nhưng anh không quá bận tâm về điều đó

“Tổng số ngư dân ở khu vực này vẫn ổn định và việc đánh bắt có tương lai cho thế hệ sau”, ông nói. Có nhiều lĩnh vực kinh doanh không nhất thiết phải liên quan trực tiếp đến việc ra khơi, vì vậy bạn luôn có thể dấn thân vào lĩnh vực kinh doanh hải sản sau này, bằng cách này hay cách khác

Chiến lược phát triển biển cân bằng

Người ta có thể lập luận rằng lịch sử của gia đình Jens-Einar mô tả chính xác cách thức đánh bắt, nuôi trồng thủy sản và chế biến hải sản phát triển ở Na Uy trong thời kỳ mà ít người đánh cá hơn nhưng nhiều người tham gia vào các hoạt động trồng trọt, chế biến và các hoạt động khác

Số lượng ngư dân toàn thời gian ở Na Uy đã giảm một phần ba kể từ năm 2000, trong khi số lượng người làm việc bán thời gian đã tăng gấp ba lần trong cùng thời gian đó. Vào năm 2020, có 9505 ngư dân toàn thời gian và 479 người bán thời gian

Đâu là sự khác biệt giữa ngư dân Na Uy xưa và nay?
Hải sản Na Uy lấy trực tiếp từ tự nhiên. Hội đồng Hải sản Na Uy

Số lượng tàu đánh cá nói chung đã giảm kể từ năm 2000; . 857 mặt hàng (giảm 60% trong thời gian này)

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, nhưng có thể xác định được một số nguyên nhân chính, bao gồm sự cải tiến của ngư cụ và máy móc hỗ trợ giúp quá trình đánh bắt hiệu quả và năng suất đồng thời cần ít nhân công hơn.

Ngoài ra, Na Uy là một trong những quốc gia dẫn đầu thế giới về nghiên cứu, phát triển công nghệ và triển khai nuôi trồng thủy sản. Trong khi hoạt động khai thác thủy sản được duy trì để đảm bảo môi trường biển bền vững thì hoạt động nuôi trồng thủy sản trên biển cũng được thúc đẩy mạnh mẽ. Na Uy cũng là nhà sản xuất cá hồi Đại Tây Dương hàng đầu thế giới và là một trong những nhà xuất khẩu hải sản lớn nhất thế giới, và ngày càng nhiều loại hải sản đang được nuôi và phát triển mạnh ở quốc gia này, bao gồm cá hồi, cá hồi vân, cá tuyết, cá bơn, sò điệp, tôm hùm, . Ngành nuôi trồng thủy sản hiện đã phát triển thành một ngành quan trọng đối với Na Uy

1 348 doanh nghiệp được cấp phép nuôi trồng thủy sản tính đến năm 2020, trong đó 221 doanh nghiệp chuyên nuôi cá hồi và cá hồi vân. Hiện tại, có 9. 975 người làm việc trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản của Na Uy, 7 người trong số họ là nam giới. 859 người (79%)

Dễ hiểu vì sao Mr. Jens-Einar vẫn nhìn thấy nhiều cơ hội nghề nghiệp trong ngành đánh bắt, nuôi trồng và chế biến thủy sản cho hai người con của mình nhờ các chiến lược phát triển bền vững và cân bằng của ngành. Nhiều ngư dân Na Uy đã được nuôi dưỡng bởi biển từ khi họ đủ lớn để lên thuyền và đã ăn sâu vào máu của họ qua nhiều thế hệ.

Bờ biển Na Uy dài 21 000 km có triển vọng rất lớn trong việc mở rộng đánh bắt và nuôi trồng hải sản của đất nước. Na Uy có 90 000 km² biển thuộc quyền tài phán của mình, bằng khoảng 1/3 tổng diện tích đất liền. Trong suốt lịch sử của nó, nghề cá đã trở thành một ngành công nghiệp chính ở Na Uy. Đặc điểm địa lý của đất nước, đường bờ biển dài và các yếu tố khí hậu đã khiến đất nước này rất phù hợp với ngành công nghiệp này. Theo số liệu thống kê mới nhất của FAO, năm 2018, Na Uy là nước đánh bắt thủy sản lớn thứ 9 và là nhà sản xuất nuôi trồng thủy sản lớn thứ 7

Các yếu tố chính trong quản lý nghề cá của Na Uy là các quy định về hạn ngạch và tiếp cận, cùng với các kế hoạch điều chỉnh năng lực. Năm 2020, tổng sản lượng khai thác đạt trên 2. 6 triệu tấn trị giá €2. 1 tỉ. Các nghề cá quan trọng nhất hiện nay là cá tuyết (ven biển và biển cả), cá trích, cá vây vàng và cá thu. Bao gồm trong nghề cá tuyết cũng là cá tuyết chấm đen và saithe. Nghề đánh bắt cá tuyết, sản xuất cá cho con người, chiếm khoảng 1/4 tổng sản lượng đánh bắt nhưng chiếm 49% tổng giá trị. Sản lượng khai thác cá trích lớn nhất với 1 441 846 tấn (55% tổng sản lượng khai thác). Na Uy bĩu môi và cá mè xanh là những loài quan trọng khác và chủ yếu được sử dụng làm nguyên liệu sản xuất dầu cá và bột cá. Cá trích và cá thu được sử dụng cho cả tiêu dùng và chế biến thành dầu và thức ăn

Năm 2020, có 9 505 ngư dân làm việc toàn thời gian và 1 479 bán thời gian. Số lượng ngư dân làm việc toàn thời gian đã giảm một phần ba kể từ năm 2000, trong khi số lượng ngư dân làm việc bán thời gian đã giảm ba lần trong cùng thời kỳ. Kể từ năm 2000, số lượng tàu có xu hướng giảm chung và vào năm 2020, tổng số lượng của chúng là 5 857 (giảm 60% trong thập kỷ). Trên 90% đội tàu cá cả nước là tàu dưới 15m. Vào năm 2020, số lượng tàu trên 28 mét lên tới 255, tức là chỉ có 4. 3% tổng số đội tàu đánh cá. Khoảng 90% sản lượng đánh bắt của Na Uy đến từ các kho dự trữ trong các khu vực được chia sẻ với các quốc gia khác. Đối với các nguồn cá quan trọng nhất, các mức hạn ngạch được thiết lập với sự hợp tác của Nga, Iceland, Quần đảo Faroe, Greenland và EU. Ở Na Uy, lần đầu tiên doanh số bán sản phẩm thủy sản được quản lý thông qua hệ thống sáu hợp tác xã bán hàng. Norges Sildesalgslag (Tổ chức Bán hàng Cá nổi của Ngư dân Na Uy) là thị trường lớn nhất Châu Âu cho lần đầu tiên bán các loài cá nổi

Nuôi trồng thủy sản

Đâu là sự khác biệt giữa ngư dân Na Uy xưa và nay?

Na Uy có đường bờ biển dài với nước biển trong lành, sạch sẽ tạo điều kiện tốt nhất có thể cho hoạt động nuôi trồng thủy sản biển bền vững. Na Uy là một trong những quốc gia hàng đầu trên thế giới về hoạt động, công nghệ và nghiên cứu và phát triển trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản. Nuôi trồng thủy sản và chăn nuôi trên biển bao gồm một số hoạt động khác nhau cần có giấy phép. Sản xuất cá hồi và cá hồi cầu vồng là hoạt động phổ biến nhất, nhưng cá tuyết và cá bơn, sò điệp, tôm hùm châu Âu (trang trại biển) và vẹm xanh cũng được sản xuất. Na Uy là nhà sản xuất cá hồi Đại Tây Dương hàng đầu thế giới và là một trong những nhà xuất khẩu thủy sản lớn nhất thế giới. Ngành nuôi trồng thủy sản của Na Uy đã phát triển trở thành một ngành có tầm quan trọng lớn trong nước. Nuôi cá hồi thương phẩm bắt đầu phát triển từ những năm 1970, hiện nay cá hồi Đại Tây Dương và cá hồi sống được nuôi dọc bờ biển. Vào năm 2020, tổng doanh số bán cá nuôi ở Na Uy đạt 1 488 005 tấn và giá trị giết mổ là 6 €. 5

Năm 2020, sản lượng cá hồi nuôi đạt gần 1 473 818 tấn, trong đó cá hồi nuôi 1 377 185 tấn và cá hồi nuôi 96 633 tấn. Ngoài ra, các hộ nuôi cá đã sản xuất 2.071 tấn động vật có vỏ và 340 tấn tảo (tảo bẹ đường và tảo bẹ). Sự tăng trưởng và phát triển lâu dài của ngành phụ thuộc vào ngành nuôi trồng thủy sản bền vững với môi trường, giảm thiểu rủi ro đối với môi trường biển và sinh học . Năm 2020, 1 348 công ty được cấp giấy phép trong đó 1 221 công ty nuôi cá hồi và cá hồi. Tổng số lao động trong ngành nuôi trồng thủy sản là 9 975, trong đó 7 859 (79%) là lao động nam

Buôn bán

Đâu là sự khác biệt giữa ngư dân Na Uy xưa và nay?

Năm 2020, Na Uy xuất khẩu 2. 27 triệu tấn thủy sản và sản phẩm nuôi trồng thủy sản với tổng giá trị 10 tỷ euro. Tỷ lệ các loài nuôi (chủ yếu là cá hồi và cá hồi) chiếm khoảng 45% khối lượng và hơn 70% kim ngạch xuất khẩu. EU là thị trường lớn nhất của cá và hải sản từ Na Uy, chiếm khoảng 65% tổng khối lượng xuất khẩu, với Đan Mạch và Ba Lan là những thị trường chính. Ngoài EU, Hoa Kỳ là điểm đến lớn nhất (625 triệu euro vào năm 2020), tiếp theo là Trung Quốc (370 triệu euro vào năm 2020)

Na Uy cũng là một trong hai thị trường tiêu thụ thủy, hải sản hàng đầu của EU; . Trong những năm gần đây, nhập khẩu tăng đáng kể, một phần do nhu cầu nhập khẩu bột cá, dầu cá và thức ăn cá cho ngành nuôi trồng thủy sản ngày càng tăng. Các nhà cung cấp chính là các quốc gia thành viên EU và các quốc gia ở Nam Mỹ. Năm 2020, Na Uy đã nhập khẩu 350.291 tấn bột cá và dầu cá, trong đó dầu cá và dầu cá chiếm 61% khối lượng này. Tổng lượng nhập khẩu năm 2020 đạt trên 616.312 tấn, trị giá khoảng một tỷ euro. Cá tươi và ướp lạnh là nhóm sản phẩm nhập khẩu lớn nhất cho tiêu dùng của con người và chiếm 22% tổng lượng nhập khẩu thủy sản của cả nước vào năm 2020

Sự tiêu thụ

Tiêu thụ thủy sản và các sản phẩm thủy sản bình quân 43. 4 kg/người năm 2015. Cá tươi chiếm hơn một nửa tổng số sản phẩm cá được mua để tiêu dùng tại nhà, trong khi cá đông lạnh chiếm khoảng một phần ba. Doanh số bán cá tươi tăng, đặc biệt là cá phi lê. Các loài phổ biến nhất đối với người tiêu dùng Na Uy là cá tuyết, cá hồi, tôm, cá thu và cá minh thái châu Âu

thử thách

Đội tàu ven biển quy mô nhỏ chiếm một phần quan trọng trong tổng thể đội tàu cá và vấn đề dư thừa công suất cũng phải được giải quyết trong phân khúc đội tàu này.

Thiếu một khuôn khổ rõ ràng và minh bạch được quốc tế công nhận cho các tiêu chuẩn tư nhân, cũng như khuôn khổ cho các thủ tục chứng nhận. Có một nhu cầu đáng kể về sự minh bạch hơn giữa các nhà quản lý nghề cá, các nhà thiết lập tiêu chuẩn tư nhân, các cơ quan chứng nhận được công nhận và các nhà bán buôn/bán lẻ

Trong lĩnh vực nuôi cá, vấn đề chính là dịch bệnh, cũng có tác động lan tỏa đối với nguồn lợi tự nhiên. Dịch bệnh, bao gồm cả ký sinh trùng như rận biển, tiếp tục là mối lo ngại lớn trong ngành nuôi trồng thủy sản

Câu cá đã thay đổi như thế nào trong những năm qua?

Sản lượng cá và hải sản toàn cầu đã tăng gấp bốn lần trong 50 năm qua . Không chỉ dân số thế giới tăng hơn gấp đôi trong giai đoạn này, một người bình thường hiện nay ăn hải sản gần gấp đôi so với nửa thế kỷ trước. Điều này đã làm tăng áp lực lên nguồn cá trên toàn thế giới.

Làm thế nào mà họ câu cá trong quá khứ?

Lưới dệt, giỏ đập làm từ cành liễu, lao móc và móc câu (móc có chiều dài từ 8 mm đến 18 cm) đều đang được sử dụng. Đến triều đại thứ 12, móc kim loại có ngạnh đã được sử dụng. Như một điều khá phổ biến ngày nay, cá đã bị đánh chết sau khi bị bắt.

Có bao nhiêu ngư dân ở Na Uy?

Năm 2020, có 9 505 ngư dân làm việc toàn thời gian và 1 479 bán thời gian . Số lượng ngư dân làm việc toàn thời gian đã giảm một phần ba kể từ năm 2000, trong khi số lượng ngư dân làm việc bán thời gian đã giảm ba lần trong cùng thời kỳ.

Vấn đề ngư dân là gì?

Vấn đề của ngư dân là nghiên cứu về sự tương tác giữa hệ sinh thái tài nguyên, doanh nghiệp kinh tế và luật pháp trong lịch sử ngành đánh cá California . Nó phân tích những cách thức mà môi trường tự nhiên không chỉ cung cấp nguyên liệu thô cho sự phát triển kinh tế mà còn đóng một vai trò tích cực trong đó.