Đánh giá thực trạng học tập của sinh viên hiện nay

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ VÀ XÃ HỘI
-----------------------***-----------------------

PHẠM THỊ HẰNG

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP
CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY
(Nghiên cứu trường hợp sinh viên ngành Xã hội học tại
Học viện Nông nghiệp Việt Nam)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

HÀ NỘI – 2015

i

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ VÀ XÃ HỘI
-----------------------***-----------------------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH XÃ HỘI HỌC

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP
CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY
(Nghiên cứu trường hợp sinh viên ngành Xã hội học
tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam)

Tên sinh viên:

Phạm Thị Hằng

Mã sinh viên:

566630

Ngành đào tạo:

Xã hội học

Lớp:

K56XHHA

Niên khóa:

2011 - 2015

Giáo viên hướng dẫn:

Thạc sĩ Vũ Văn Tuấn

HÀ NỘI - 2015

LỜI CAM ĐOAN

ii

Tôi xin cam đoan khóa luận này được thực hiện một cách nghiêm túc,
trung thực bằng nỗ lực nghiên cứu của chính tác giả, không gian lận, không sao
chép từ các tài liệu khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính trung thực của toàn bộ nội dung khóa
luận tốt nghiệp.
NGƯỜI CAM ĐOAN

Phạm Thị Hằng

iii

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài khóa luận này, trước hết tôi xin chân thành cảm ơn
thầy cô trong Khoa Lý luận chính trị và xã hội – trường Học viện Nông nghiệp
Việt Nam, đặc biệt là thầy cô trong bộ môn Xã hội học đã tận tình dạy bảo, giúp
đỡ và định hướng cho tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu.
Tôi xin tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến giảng viên Vũ Văn
Tuấn đã nhiệt tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Tôi xin chân thành cảm ơn ban lãnh đạo Khoa Lý luận chính trị và xã
hội – Trường Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã cung cấp những số liệu cần
thiết và giúp đỡ tôi rất tận tình trong quá trình học tập cũng như nghiên cứu tại
địa bàn. Xin gửi lời cảm ơn đến toàn thể sinh viên trong địa bàn nghiên cứu đã
nhiệt tình cung cấp thông tin đầy đủ để tôi hoàn thành báo cáo này.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên, giúp
đỡ tôi hoàn thành quá trình học tập và nghiên cứu đề tài của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2015.
Sinh viên

Phạm Thị Hằng

iv

TÓM TẮT KHÓA LUẬN
Đối với con người, học tập là một trong những hình thức hoạt động
chính, không thể thiếu nhằm tiếp thu, lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm xã hội lịch
sử của xã hội loài người đã được tích lũy qua nhiều thế hệ. Đối với sinh viên ở
trường đại học, học tập là một dạng hoạt động cơ bản mà thông qua đó người
sinh viên nắm vững kiến thức chuyên môn và kỹ năng thực hành nghề, có khả
năng phát hiện và giải quyết những vấn đề thông thường thuộc chuyên ngành
đào tạo.
Để tài “Thực trạng hoạt động học tập của sinh viên hiện nay” (Nghiên
cứu trường hợp sinh viên ngành Xã hội học tại Học viện Nông nghiệp Việt
Nam) được thực hiện trên đối tượng sinh viên đại học hệ chính quy đang theo
học tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam. Các kết quả thu được từ việc điều tra
theo phương pháp thu thập thông tin như phân tích tài liệu, phỏng vấn sâu, điều
tra bảng hỏi, kết hợp với phương pháp xử lý và phân tích thông tin đã cho thấy
đa số sinh viên có nhận thức đúng về giá trị của việc học tập đối với bản thân,
nhưng cũng còn một bộ phận nhỏ sinh viên chưa thực sự nhận thức rõ ràng,
đúng đắn về giá trị của việc học tập. Bên cạnh đó, đa số sinh viên đều có thái độ
hài lòng với quá trình học tập ở mức khá cao, các em đều cảm thấy thú vị và
háo hức chờ đón kiến thức mới, kiên định trong học tập, sẵn sàng nỗ lực hết sức
mình trong học tập. Tuy nhiên vẫn còn một số ít sinh viên có thái độ không hài
lòng với quá trình học tập của bản thân.Về mặt hành vi thì phần lớn sinh viên có
ý thức vươn lên trong học tập, những nhiệm vụ chủ yếu trong học tập được đa
số sinh viên thực hiện nghiêm túc và còn một bộ phận sinh viên chưa cố gắng
trong học tập.

v

MỤC LỤC

vi

DANH MỤC BẢNG
Bảng 4.1: Động cơ học tập chính của sinh viên ngành Xã hội học
Bảng 4.2: Mối liên hệ giữa động cơ học tập của sinh viên các khóa ngành
Xã hội học
Bảng 4.3: Mục đích học tập chính của sinh viên Ngành Xã hội học
Bảng 4.4: Mức độ thực hiện các phương pháp tự học của sinh viên ngành Xã
hội học
Bảng 4.5: Mức độ thực hiện các hành vi học tập của sinh viên
ngành Xã hội học
Bảng 4.6: Nhóm các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động học tập của sinh viên
ngành Xã hội học
Bảng 4.7: Kết quả điểm học tập của sinh viên ngành Xã hội học
Bảng 4.8: Kết quả điểm rèn luyện của sinh viên ngành Xã hội học

vii

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 4.1: Mức độ xác định mục đích học tập của sinh viên ngành
Xã hội học
Biểu đồ 4.2: Mức độ xác định mục đích học tập của các khóa sinh viên ngành
Xã hội học

Biểu đồ 4.3: Thái độ học tập của sinh viên ngành Xã hội học
Biểu đồ 4.4: Thái độ học tập của sinh viên các khóa ngành Xã hội học
Biểu đồ 4.5: Thời gian tự học của sinh viên ngành Xã hội học
Biểu đồ 4.6: Thời gian tự học của sinh viên các khóa ngành Xã hội học
Biểu đồ 4.7: Địa điểm tự học của sinh viên ngành Xã hội học
Biểu đồ 4.8: Mức độ hiểu và nắm kiến thức của sinh viên ngành Xã hội học với
hoạt động học tập trên lớp
Biểu đồ 4.9: Mức độ quan trọng của phương pháp học tập đối với sinh viên
ngành Xã hội học
Biểu đồ 4.10: Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố khách quan tới hoạt động học
tập của sinh viên ngành Xã hội học
Biểu đồ 4.11: Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan tới hoạt động học tập
của sinh viên ngành Xã hội học

viii

DANH MỤC HỘP
Hộp 4.1: Nguyên nhân chưa xác định mục đích học tập của sinh viên ngành Xã
hội học
Hộp 4.2: Mục đích học tập của sinh viên khóa 59 ngành Xã hội học
Hộp 4.3: Những băn khoăn của sinh viên ngành
Xã hội học trong quá trình học tập
Hộp 4.4: Sự khác biệt giữa việc sử dụng các địa điểm tự học của sinh viên
ngành Xã hội học
Hộp 4.5: Lý do thực hiện các phương pháp tự học của sinh viên ngành
Xã hội học
Hộp 4.6: Mục đích thực hiện hành vi học tập 1 của sinh viên
ngành Xã hội học
Hộp 4.7: Nguyên nhân sinh viên không hiểu và nắm vững kiến thức trên lớp

học

ix

PHẦN 1: GIỚI THIỆU
1.1. Đặt vấn đề
Đất nước đang trong quá trình đổi mới, thực hiện quá trình công
nghiệp hóa - hiện đại hóa, mở cửa hội nhập với các nước trong khu vực và trên
thế giới. Để quá trình này diễn ra thành công đòi hỏi có sự đóng góp của tất cả
các tầng lớp nhân dân, trong đó có thế hệ trẻ Việt Nam đóng vai trò tiên phong,
sinh viên là lớp người trẻ và là lực lượng đi đầu trong quá trình công nghiệp hóa
– hiện đại hóa đất nước. Vị trí, vai trò quan trọng của thanh niên, sinh viên đã
được khẳng định trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước. Văn kiện Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định: “đối với thế hệ trẻ, chăm lo giáo dục,
bồi dưỡng đào tạo phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống,
văn hóa, sức khỏe, nghề nghiệp, giải quyết việc làm, phát triển tài năng và sức
sáng tạo, phát huy vai trò xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc”.
Để sinh viên có thể đóng góp được nhiều nhất sức lực và trí tuệ vào quá
trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa của đất nước trong thời kì mới thì trước
hết sinh viên phải tự trang bị cho mình những tri thức, kĩ năng, thái độ phù hợp
thông qua hoạt động học tập tại nhà trường. Học tập là hoạt động cơ bản mà
thông qua đó sinh viên nắm vững kiến thức chuyên môn và kĩ năng thực hành
về nghề, có khả năng phát hiện và giải quyết những vấn đề thông thường thuộc
chuyên ngành đào tạo, để trở thành chuyên gia trong lĩnh vực đào tạo, có kĩ
năng lao động nghề, nuôi sống bản thân, phục vụ xã hội trong tương lai, do đó
hoạt động học tập có ý nghĩa rất lớn với mỗi sinh viên.
Trường Học viện Nông nghiệp Việt Nam thành lập năm 1956 đến nay
luôn phấn đấu trở thành trung tâm đào tạo, nghiên cứu đa ngành với việc mở

rộng thêm các chuyên ngành đào tạo góp phần phục vụ đắc lực cho công cuộc
đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam nói riêng và đổi mới đất
nước nói chung. Nhằm thực hiện phương hướng phát triển lâu dài của Nhà

1

trường là hướng tới đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực, nên ngay từ đầu nhiệm kỳ
Hiệu trưởng 2006 – 2011, Nhà trường đã xây dựng và đấu thầu dự án TRIG,
tranh thủ nguồn vốn vay dài hạn của Ngân hàng Thế giới để mở các ngành đào
tạo mới. Được sự đồng ý của Nhà trường, Khoa Mác – Lênin tham gia vào một
phần dự án TRIG nhằm mở ngành đào tạo Xã hội học do khoa trực tiếp quản lý.
Để hướng tới mở ngành học Xã hội học, theo đề nghị của Khoa, tháng 2 năm
2008 Hiệu trưởng ra quyết định thành lập Bộ môn Xã hội học thuộc Khoa Mác
– Lênin. Bên cạnh đó, trong công tác đào tạo sinh viên đại học năm 2008, lãnh
đạo Nhà trường quyết định chuyển từ chương trình đào tạo niên chế sang
chương trình đào tạo tín chỉ. Theo quy định của trường, sinh viên từ khóa 52 trở
về trước vẫn học chương trình đào tạo niên chế. Chương trình đào tạo tín chỉ
được thực hiện đối với sinh viên tuyển sinh trong năm 2008, tức là bắt đầu từ
khóa 53. Tiếp theo, ngày 18 tháng 9 năm 2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo ra
Quyết định số 52/2008/QĐ – BGDĐT về “Ban hành chương trình các môn học
lý luận chính trị trình độ đại học, cao đẳng dùng cho sinh viên khối không
chuyên ngành Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh”. Dựa trên sự chỉ đạo của
Bộ Giáo dục và Đào tạo và căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ của Khoa Mác –
Lênin trong trường, ngày 17 tháng 6 năm 2008, Hiệu trưởng Trường Đại học
Nông nghiệp Hà Nội ra Quyết định số 762/QĐ – NNH đổi tên Khoa Mác –
Lênin thành Khoa Lý luận chính trị và Xã hội và các Quyết định thành lập các
bộ môn giảng dạy các môn học lý luận chính trị trong nhà trường Theo hướng
dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đối với Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội,
các môn học lý luận theo chương trình mới được áp dụng bắt đầu cho những

sinh viên từ khóa 53 trở đi. Trong đợt tuyển sinh hệ đại học chính quy năm
2009, Nhà trường đã thực hiện tuyển sinh ngành Xã hội học đầu tiên, kết quả
năm học 2009 – 2010, Khoa Lý luận chính trị và Xã hội đã mở được một lớp
học ngành Xã hội học nông thôn gồm 87 sinh viên vào học. Với mục tiêu đào
tạo nguồn nhân lực có trình độ kĩ năng chuyên môn Xã hội học cao và có khả

2

năng ứng dụng tốt trong lí giải, phân tích và giải quyết các vấn đề xã hội, có
phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng và đạo đức nghề nghiệp,
có ý thức phục vụ Tổ quốc và nhân dân, có sức khoẻ và năng lực giao tiếp xã
hội đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy
nhiên, hoạt động học tập của sinh viên Xã hội học trong trường gặp phải một số
khó khăn nhất định như ngành học còn rất xa lạ đối với sinh viên khi được đào
tạo trong một trường không chuyên, cùng với đó việc chuyển đổi hình thức đào
tạo từ niên chế sang hình thức tín chỉ trong những năm gần đây, đã và đang đặt
ra một thách thức rất lớn với sinh viên trong hoạt động học tập.
Trước tình hình đó, sinh viên ngành Xã hội học tại Học viện Nông
nghiệp Việt Nam nhận thức về hoạt động học tập như thế nào ? Những hành vi
học tập được biểu hiện ra sao ? Kết quả học tập như thế nào ? Để trả lời những
câu hỏi trên tôi chọn đề tài nghiên cứu: “thực trạng hoạt động học tập của sinh
viên hiện nay” – nghiên cứu trường hợp sinh viên Xã hội học tại Học viện Nông
nghiệp Việt Nam làm vấn đề nghiên cứu.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Mục tiêu của đề tài là tìm hiểu thực trạng hoạt động học tập của sinh
viên ngành Xã hội học tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam hiện nay.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
Để đạt được mục tiêu chung, đề tài thực hiện các nội dung cụ thể như sau:

- Tìm hiểu nhận thức về hoạt động học tập của sinh viên ngành Xã hội
học tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
- Tìm hiểu hành vi học tập của sinh viên ngành Xã hội học tại Học viện
Nông nghiệp việt Nam.
- Tìm hiểu kết quả học tập của sinh viên ngành Xã hội học tại Học viện
Nông nghiệp Việt Nam.
1.3. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
1.3.2. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của đề tài là sinh viên ngành Xã hội học khóa 57,
58, 59 đang học tập tại Học viện Nông Nghiệp Việt Nam.
1.3.3. Phạm vi nghiên cứu

3

1.3.3.1. Phạm vi nội dung
Nghiên cứu này được thực hiện tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
Đối tượng khảo sát là sinh viên khóa 57, 58, 59 hệ chính quy đang theo học
ngành Xã hội học tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam. Thực tế nghiên cứu cho
thấy có rất nhiều vấn đề xoay quanh hoạt động học tập của sinh viên. Tuy
nhiên, với mục tiêu nghiên cứu đã xác định và với khả năng và điều kiện cho
phép, tôi chỉ tiến hành nghiên cứu vấn đề theo quá trình nhận thức, thái độ,
hành vi và kết quả đạt được trong hoạt động học tập của sinh viên ngành Xã hội
học, từ đó đưa ra một số khuyến nghị giúp thay đổi hoạt động học tập của sinh
viên hiện nay theo hướng tích cực.
1.3.3.2. Phạm vi không gian
Nghiên cứu này được thực hiện tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
Đối tượng khảo sát là sinh viên khóa 57, 58, 59 hệ chính quy đang theo học
ngành Xã hội học tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
1.3.3.3. Phạm vi thời gian

- Số liệu thứ cấp: từ tháng 1/2015 đến tháng 2/2015
- Số liệu sơ cấp: từ tháng 3/2015 đến tháng 5/2015
- Thời gian thực hiện: từ tháng 1/2015 đến tháng 6/2015

4

PHẦN 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Các lý thuyết nền cho đề tài nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng mà nghiên cứu tiến hành đó là các yếu tố: động cơ học tập,
mục đích học tập, thái độ học tập, hành vi học tập và kết quả học tập của sinh
viên ngành Xã hội học tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam.
2.1.1. Lý thuyết lựa chọn duy lý (lựa chọn hợp lý)
Lý thuyết lựa chọn duy lý dựa vào tiền đề cho rằng, con người luôn
hành động một cách có chủ đích, có suy nghĩ để lựa chọn và sử dụng các nguồn
lực một cách duy lý nhằm đạt được kết quả tối đa với chi phí tối thiểu.
Thuật ngữ lựa chọn được dùng để nhấn mạnh việc phải cân nhắc tính
toán, để quyết định sử dụng loại phương tiện hay cách thức tối ưu trong số các
điều kiện hay cách thức thực hiện để đạt được mục tiêu trong điều kiện khan
hiếm các nguồn lực. Thuyết lựa chọn duy lý còn đòi hỏi phải phân tích hành
động lựa chọn của cá nhân trong mối liên hệ với cả hệ thống xã hội của nó, bao
gồm các cá nhân khác với những nhu cầu và sự mong đợi của họ, các khả năng
lựa chọn và sản phẩm đầu ra của từng lựa chọn cùng với các đặc điểm khác. Do
tác động của nhiều yếu tố khác mà hành vi lựa chọn duy lý của cá nhân có thể
tạo ra những sản phẩm phi lý không mong đợi của cả nhóm và tập thể. Vận
dụng quan điểm này để giải thích rằng sinh viên giải quyết như thế nào khi hoạt
động học tập không đạt được kết quả như mong muốn. Mục đích cuối cùng của
việc giải quyết vấn đề tồn tại trong học tập là việc lựa chọn hành động hợp lý
nhằm đạt được kết qủa học tập tốt. Trong quá trình học tập việc lơ là, chểnh

mảng,… xảy ra ở một số sinh viên đôi lúc xảy ra nhiều hậu quả không như
mong muốn. Chính vì vậy họ đã lựa chọn, họ đã suy nghĩ và hành động có chủ
đích, họ có sự cân nhắc, tính toán giữa cái được và cái mất để có thể giải quyết
vấn đề học tập của bản thân một cách tốt nhất.
2.1.2. Lý thuyết tương tác biểu trưng của George Herbert Mead

5

Tương tác biểu trưng là quan điểm cho rằng các cá nhân trong quá trình
tương tác qua lại với nhau không phản ứng đối với các hành động trực tiếp của
người khác mà đọc và lý giải chúng.
Đóng góp của George Herbert Mead đối với lý thuyết xã hội học hiện
đại thể hiện ở việc ông xây dựng và phát triển những khái niệm như cái tôi,
nhân cách, tương tác, biểu tượng để nghiên cứu đặc điểm và tính chất đặc thù
của mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội để lý giải hành động xã hội của con
người. Về cái tôi (bản ngã), được xem như một quá trình xã hội, sự thông tin
giữa con người. Bản ngã là khả năng tự đặt bản thân một cách vô thức vào địa
vị của những người khác và hành động như họ hành động. Tuy nhiên, người ta
không thể tự kiểm nghiệm bản thân một cách trực tiếp. Họ chỉ có thể làm điều
này một cách gián tiếp bằng cách tự đặt mình vào vị trí của những người khác
và xem xét bản thân từ quan điểm đó.
Ông cho rằng con người tương tác với nhau dựa trên các biểu tượng có ý
nghĩa. Các biểu tượng này xuất hiện trong quá trình trao đổi của con người.
Nghĩa là con người có thể tương tác với nhau không chỉ qua các điệu bộ mà cả
qua các biểu tượng có ý nghĩa. Lúc đầu, con người chưa hiểu nhau sau đó một
chuỗi các hành vi được thực hiện trong một thời gian dài và trở thành các biểu
trưng có ý nghĩa từ đó trở thành công cụ giao tiếp của con người.
Theo lý thuyết tương tác biểu trưng của George Herbert Mead chúng ta
có thể thấy giữa các khóa sinh viên trong những những giai đoạn học tập khác

nhau, sự khác nhau về trình độ học vấn, khả năng nhận thức, những khác biệt về
thái độ, hành vi… đã làm cho các các biểu trưng giữa các lớp sinh viên có thể
khác nhau. Thuyết này quan tâm đến cách con người tác động qua lại với nhau.
Trong một mối quan hệ, không phải bao giờ mọi việc cũng được hiểu theo cách
giống nhau, chúng ta cần phải làm rõ nó bằng cách giao tiếp. Ngoài ra, còn sử
dụng các cử chỉ, hành vi, thái độ để biểu hiện ra bên ngoài.
2.1.3. Lý thuyết hành động xã hội của Weber

6

Weber đã chỉ ra sự khác nhau giữa hành động xã hội khác và những
hành vi, hoạt động khác của con người. Nói tới hành động là nói tới việc chủ thể
gắn cho hành vi của mình một ý nghĩa chủ quan nào đó. Hành động, kể cả hành
động thụ động và không hành động (ví dụ hành động im lặng, hành động chờ
đợi không làm gì cả), được gọi là hành động xã hội khi ý nghĩa chủ quan của nó
có tính đến hành vi của người khác trong quá khứ, hiện tại hay trong tương lai,
ý nghĩa chủ quan đó định hướng hành động.
Không phải hành động nào cũng có tính xã hội hay đều là hành động xã
hội. Ví dụ, hành động chỉ nhằm tới các sự vật mà không tính đến hành vi của
người khác thì không được coi là hành động xã hội. Như hoạt động học tập của
sinh viên được thực hiện bởi các hành vi học tập mà hành vi này được các cá
nhân gán cho bởi các động cơ, mục đích học tập, từ đó các hành vi học tập mới
được định hướng theo để thực hiện một cách tốt nhất mục tiêu. Cũng không
phải tương tác nào của con người cũng là hành động xã hội. Ví dụ, việc hai
người đi xe đạp vô tình va quệt vào nhau trên đường phố không phải là hành vi
xã hội.
Hành động giống nhau của các cá nhân trong một đám đông cũng không
được coi là hành động xã hội. Ví dụ, trên đường phố đột nhiên trời mưa nhiều
người giương ô, mặc áo ni-lon che mưa, theo Weber, đó không phải là hành

động xã hội.
Thậm chí hành động thuần túy bắt chước hay làm theo người khác cũng
không phải là hành động xã hội. Hành động đó có thể coi là hành động có
nguyên nhân từ phía người khác, nhưng không có ý nghĩa hướng tới người đó,
do vậy không được coi là hành vi xã hội. Tuy nhiên. Cũng là hành vi bắt chước
người khác, nhưng nếu việc bắt chước đó là do mốt và mẫu mực, nếu không bắt
chước theo sẽ bị người khác chê cười thì hành động bắt chước đó trở thành hành
động xã hội. Ví dụ như hành vi nghe giảng và ghi chép bài trên lớp học, đó là
một dạng hành vi mẫu mực được các cá nhân bắt chước và làm theo, nó trở
thành một hành động xã hội, không chỉ đơn thuần như vậy mà hành động này

7

còn được chủ thể gán chop một ý nghĩa là nhằm tiếp thgu tri thức từ người dạy
để có thể có kiến thức cho việc thi cử cũng như áp dụng vào cuộc sống sau này.
Weber cho rằng việc phân loại hành động của con người có ý nghĩa rất
quan trọng đối với xã hội học bởi vì, mặc dù có nghiên cứu hành động người,
khoa học xã hội chủ yếu quan tâm đến hành động xã hội. Có thể coi bảng phân
loại hành động xã hội của Weber là một lý thuyết về hành động về hành động
xã hội bởi vì ông đã sử dụng cách phân loại này để lý giải sự biến đổi xã hội và
định nghĩa về xã hội học. Thuyết hành động xã hội của Weber phân biệt rõ bốn
loại hành động xã hội như sau: hành động duy lý – công cụ, hành động duy lý
giá trị, hành động cảm tính (xúc cảm), hành động theo truyền thống. Trong hoạt
động học tập của sinh viên hiện nay thì bốn kiểu hành động này đều được vận
dụng nhưng đa số kiểu hành động theo truyền thống được sử dụng nhiều hơn
như hành động ngồi im nghe giảng, ghi chép bài một cách thụ động của đa số
sinh viên, đi học đúng giờ và tham gia các buổi học một cách đầy đủ.
2.2. Các nghiên cứu liên quan
Hoạt động học tập từ lâu đã được các nhà khoa học quan tâm nghiên

cứu, có thể nói đây không còn là vấn đề xa lạ. Tuy nhiên, đứng ở mỗi góc độ lại
nghiên cứu hoạt động học tập ở những phương diện khác nhau, nghiên cứu ở
những đối tượng, khách thể khác nhau.
Nghiên cứu của Nguyễn Văn Lượt (2007) đã nghiên cứu về ý chí trong
hoạt động học tập của sinh viên Khoa Tâm lý học Trường Đại học Khoa học xã
hội và nhân văn – Đại Học Quốc Gia Hà Nội. Nghiên cứu đã khảo sát 245 sinh
viên về động cơ học tập, nhận thức về vai trò của ý chí trong hoạt động học tập,
ý chí thể hiện trong các hành động học tập như: nghe giảng, xêmina, đọc tài
liệu, nghiên cứu khoa học, thực hành, thực tập, thực tế. Nghiên cứu đã kết luận,
động cơ học tập của sinh viên khoa Tâm lý học chủ yếu tập trung vào việc tích
lũy tri thức, kỹ năng, kỹ xảo để sau này có thể làm một nghề nghiệp cụ thể,
không có động cơ chung chung, trừu tượng. Đồng thời có sự khác biệt trong

8

việc xác định động cơ học tập giữa sinh viên năm nhất và năm cuối. Có rất
nhiều yếu tố ảnh hưởng đến ý chí trong hoạt động học tập của sinh viên. Trong
đó, các yếu tố chủ quan, từ phía chủ thể sinh viên như: động cơ học tập, ý thức
trách nhiệm với gia đình, xã hội là yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ hơn đến nỗ lực ý
chí trong hành động học tập của sinh viên so với các yếu tố khách quan: phương
thức kiểm tra đánh giá thi cử, các hoạt động hỗ trợ học tập của các tổ chức
chính trị - xã hội của sinh viên như Đoàn thanh niên, Hội Sinh viên.
Phan Hữu Tín, Nguyễn Thúy Quỳnh Loan (2011) đã nghiên cứu về các
yếu tố ảnh hưởng đến thái độ học tập của sinh viên Trường Đại học Đà Lạt.
Nghiên cứu đã khảo sát 812 sinh viên từ năm 2 trở đi về 7 yếu tố tác động tới
thái độ học tập của sinh viên gồm: Giảng viên; Phương pháp giảng dạy; Hệ
thống cơ sở vật chất; Giáo trình, nội dung môn học; Thực hành, thực tập thực
tế; Động lực học tập; Điều kiện ăn ở, sinh hoạt. Kết quả nghiên cứu cả 7 yếu tố
đều có ảnh hưởng tích cực tới thái độ học tập của sinh viên, trong đó yếu tố

Động lực học tập và Giáo trình, nội dung môn học có tác động tích cực nhất.
Nghiên cứu của Nguyễn Quý Thanh (2003) về tác động của hoạt động
giao tiếp với các phương tiện truyền thông đại chúng đến hoạt động học tập
được tiến hành tại 6 trường Đại học tại hai thành phố lớn Hà Nội và TPHCM
với tổng số 334 sinh viên được lựa chọn khảo sát cân bằng giữa các năm học, ở
mỗi trường. Qua nghiên cứu, các hành vi học tập được phát hiện gồm hai dạng
hành vi trong giờ học trên lớp và hành vi ngoài giờ lên lớp. Hành vi học tập
trong giờ học trên lớp được chia thành dạng tích cực và tiêu cực. Nghiên cứu đã
nêu một số kết luận như: giới tính có tác động đến hoạt động học tập, sinh viên
các năm trên thường tích cực phát biểu hơn, sinh viên phát biểu tích cực có kết
quả học tập cao hơn, sinh viên các trường kỹ thuật quay cóp nhiều hơn các
trường khối xã hội, giới tính và năm học không có tác động đến việc mượn và
đọc tài liệu, việc học nhóm.
Nguyễn Quý Thanh và các cộng sự (2008) đã nghiên cứu nhận thức, thái
độ và thực hành của sinh viên với phương pháp học tích cực. Nghiên cứu đă

9

thực hiện một khảo sát bằng phiếu trưng cầu ý kiến được nghiên cứu chọn mẫu
tại 6 trường là Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Khoa học tự
nhiên, Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Y Hà Nội, Đại
học Bách khoa Hà Nội, Đại học Kinh tế quốc dân với số lượng mẫu là 300, và 4
phỏng vấn sâu cá nhân, 1 quan sát trường hợp. Báo cáo cho thấy giá trị của mức
độ nhận thức, mức độ thực hành và mức độ trạng thái xúc cảm học tập tích cực
lần lượt là 95%, 62% và 55,5%. Các dạng hành vi học tập được xem xét như
dạng hành vi học tập thụ động qua vấn đề tranh luận với giảng viên, dạng hành
vi phản học tập như sử dụng tài liệu khi chưa được phép và hành vi không tập
trung vào bài giảng, một dạng hành vi tích cực được bàn tới là dạng hành vi tìm
kiếm tài liệu ở thư viện. Kết quả mô tả kèm theo các phân tích tương quan, phân

tích phương sai 1 nhân tố (Anova) đã cho thấy có sự khác biệt về giới, điểm học
tập kỳ gần nhất, vị trí ngồi trong lớp, nơi cư trú tới các dạng hành vi học tập, tới
nhận thức và trạng thái xúc cảm tích cực. Báo cáo còn khẳng định, trong quá
trình học tập của sinh viên còn tồn tại những ngưỡng tình huống làm cho sinh
viên trở nên ì, chưa vượt qua được để chuyển hóa nhận thức, xúc cảm học tập
tích cực thành thực hành học tập tích cực.
Bên cạnh đó hoạt động học tập của sinh viên trong các trường đại học,
cao đẳng có các đề tài nghiên cứu cho Luận văn Thạc sĩ như: “Thực trạng quản
lí hoạt động học tập của sinh viên trường đại học Yersin Đà Lạt” của Nguyễn
Thanh Sơn (2010). “Mức độ thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên hệ
cao đẳng trường Đại học Công nghiệp Hà Nội” của Đỗ Thị Thanh Mai (2009).
“Khó khăn tâm lí trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất trường
Đại học Sư phạm TPHCM” của Nguyễn Thị Thiên Kim (2007). “Hứng thú học
tập của sinh viên năm nhất trường Đại học Văn Hiến TPHCM” của Nguyễn Thị
Bích Thủy (2010). Các nghiên cứu này hầu hết đều chỉ ra các phương pháp học
tập của sinh viên theo hai hướng tích cực và tiêu cực, từ đó các tác giả đề cập
tới giải pháp giúp sinh viên học tập hiệu quả hơn.

10

Các công trình nghiên cứu trên đây về hoạt động học tập của sinh viên
cho thấy rằng hoạt động học tập của sinh viên đã có những cơ sở lí luận rất
vững chắc. Tuy nhiên, những công trình đi sâu nghiên cứu hoạt động học tập
của sinh viên hiện nay trong trường đại học còn ít và chưa có nhiều. Trong đó
“thực trạng hoạt động học tập của sinh viên Xã hội học tại Học viện Nông
nghiệp Việt Nam” chưa có tác giả nào nghiên cứu, do đó đề tài này tập trung
nghiên cứu đánh giá thực trạng hoạt động học tập của sinh viên ngành Xã hội
học tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam thông qua việc mô tả theo quá trình
nhận thức, thái độ, hành vi, kết quả, từ đó sẽ có cái nhìn sâu hơn về hoạt động

học tập của sinh viên hiện nay.

11

2.3. Các khái niệm liên quan đến đề tài
2.3.1. Khái niệm sinh viên
Theo cách phổ biến hiện nay trong xã hội thì khái niệm “sinh viên”
được Nhà nước thể chế hóa, pháp lý hóa thuật ngữ này bằng luật định. Trong
luật Giáo dục (2005) đã thống nhất cách gọi với sinh viên như sau:
Sinh viên là người đang học tại các trường cao đẳng, trường đại học.
Như vậy, tất cả những người đang học ở bậc cao đẳng và đại học đều
được gọi là sinh viên.
Tuy nhiên, hiện nay các trường cao đẳng và đại học mở rộng cửa cho tất
cả những ai có nguyện vọng và điều kiện học tập, không phân biệt lứa tuổi, giới
tính, giàu nghèo,… đều có thể tham gia quá trình học tập bằng nhiều con đường
và hình thức khác nhau: tại chức, văn bằng 2,… Do đó với khái niệm sinh viên
như trên thì ngoại diên của nó rất rộng. Đối với đề tài nghiên cứu này chỉ
nghiên cứu với đối tượng sinh viên hệ đại học chính quy nên tôi thu hẹp nội
hàm khái niệm “sinh viên” như sau:
- Là người đã tốt nghiệp trung học phổ thông
- Họ đã vượt qua kỳ thi tuyển sinh đại học, kỳ thi xét tuyển nguyện vọng
và đỗ vào trường
- Họ là nhóm thanh niên nam, nữ tuổi từ 17 đến 25
- Họ chưa có nghề nghiệp, việc làm xác định do đó còn lệ thuộc vào gia
đình về kinh tế
- Họ là nhóm xã hội đặc biệt gồm các thanh niên xuất thân từ các tầng
lớp xã hội khác nhau đang trong quá trình học tập, chuẩn bị nghề nghiệp chuyên
môn để bước vào một nhóm xã hội mới là tầng lớp tri thức trẻ.
2.3.2. Khái niệm hoạt động học tập

Có nhiều định nghĩa khác nhau về hoạt động học tập:
- Tác giả Lê Văn Hồng trong cuốn “Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư
phạm” định nghĩa : hoạt động học tập là hoạt động đặc thù của con người, được
điều khiển bời mục đích tự giác, là lĩnh hội những tri thức kĩ năng, kĩ xảo mới,
những hình thức hành vi và những hoạt động nhất định.
- Theo các tác giả Diệp Thị Thanh và Đoàn Thanh Hà (2009), hoạt động
học tập tại các trường đại học là quá trình mỗi sinh viên tự mình chiếm lĩnh hệ

12

thống tri thức, kỹ năng đáp ứng các yêu cầu của nghề nghiệp trong tương lai và
tạo nền tảng để vươn lên thích ứng với những yêu cầu trước mặt và lâu dài mà
thực tiễn xã hội đặt ra.
- Dưới góc độ tâm lý, theo PGS.TS. Phạm Viết Vượng (2000), hoạt
động học của người học không thể tách rời hoạt động dạy của giáo viên trong
quá trình dạy học. "Hoạt động học tập là quá trình nhận thức tìm tòi, thấu hiểu,
nắm vững, ghi nhớ và vận dụng kiến thức vào cuộc sống".
Hoạt động học tập của sinh viên có tính chất độc đáo về mục đích và kết
quả hoạt động. Đó là, khác với lao động, học tập không làm thay đổi đối tượng
mà thay chính bản thân mình. Sinh viên học tập để tiếp thu các tri thức khoa
học, hình thành những kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, phát triển những phẩm
chất nhân cách người chuyên gia tương lai.
Hoạt động học tập được diễn ra trong điều kiện có kế hoạch vì nó phụ
thuộc vào nội dung, chương trình, mục tiêu, phương thức và thời hạn đào tạo.
Phương tiện hoạt động học tập là thư viện, sách vở, máy tính.
Tâm lý diễn ra trong hoạt động học tập của sinh viên với nhịp độ căng
thẳng, mạnh mẽ về trí tuệ.
Hoạt động học tập của sinh viên mang tính độc lập cao. Cái cốt lõi của
hoạt động học tập của sinh viên của sinh viên là sự tự ý thức về động cơ mục

đích, biện pháp học tập.
Phùng Văn Nam (2010), cho rằng hoạt động học tập của lứa tuổi thanh
niên (18 đến 25 tuổi) là hoạt động nhằm chiếm lĩnh hệ thống tri thức, kỹ năng,
kỹ xảo. Đối với sinh viên hoạt động học là để có một nghề, học phải chú trọng
đến thực hành trong các công việc thực tế làm cho kiến thức trở nên sống động,
biến tri thức thành tư tưởng và phƣơng pháp. Mục đích học tập lúc này là học
để làm việc, làm người, phục vụ xã hội, Tổ quốc, nhân dân. Học để cùng chung
sống, cùng hợp tác và cùng phát triển. Nét đặc trưng cho hoạt động học tập của
thanh niên sinh viên là sự căng thẳng nhiều về trí tuệ, sự phối hợp của nhiều
thao tác tư duy như phân tích, so sánh, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa.

13

Theo các quan điểm trên, tôi cho rằng có thể hiểu hoạt động học tập của
sinh viên chính là xuất phát từ nhận thức của hoạt động trí óc được thể hiện ra
bên ngoài thông qua những thao tác cụ thể, kết quả nhằm chiếm lĩnh tri thức
(tiếp nhận và làm gia tăng tri thức) trong quá trình học tập. Có nhiều dạng hành
vi học tập nhưng bản chất nhất, cơ bản nhất là hành động phân tích, mô hình
hoá, cụ thể hoá. Có thể hiểu hành vi học tập chính là phương pháp học tập theo
nghĩa cụ thể nhất.

14

PHẦN 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Chọn điểm nghiên cứu
Ngày 28 tháng 03 năm 2014, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số
441/QĐ-TTg thành lập Học viện Nông nghiệp Việt Nam trên cơ sở tổ chức lại
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội. Học viện Nông nghiệp Việt Nam với tầm

nhìn phấn đấu trở thành trung tâm đào tạo, nghiên cứu đa ngành với chất lượng
hàng đầu trong nước, tiên tiến trong khu vực về nông nghiệp và phát triển nông
thôn, phục vụ đắc lực cho công cuộc đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại
học Việt Nam.
Cùng với đó nhằm thực hiện phương hướng phát triển lâu dài của Nhà
trường là hướng tới đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực, nên ngay từ đầu nhiệm kỳ
Hiệu trưởng 2006 – 2011, Nhà trường đã xây dựng và đấu thầu dự án TRIG,
tranh thủ nguồn vốn vay dài hạn của Ngân hàng Thế giới để mở các ngành đào
tạo mới. Được sự đồng ý của Nhà trường, Khoa Mác – Lênin tham gia vào một
phần dự án TRIG nhằm mở ngành đào tạo Xã hội học do khoa trực tiếp quản lý.
Để hướng tới mở ngành học Xã hội học, theo đề nghị của Khoa, tháng 2 năm
2008 Hiệu trưởng ra quyết định thành lập Bộ môn Xã hội học thuộc Khoa Mác
– Lênin. Tiếp theo, ngày 18 tháng 9 năm 2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo ra
Quyết định số 52/2008/QĐ – BGDĐT về “Ban hành chương trình các môn học
lý luận chính trị trình độ đại học, cao đẳng dùng cho sinh viên khối không
chuyên ngành Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh”. Dựa trên sự chỉ đạo của
Bộ Giáo dục và Đào tạo và căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ của Khoa Mác –
Lênin trong trường, ngày 17 tháng 6 năm 2008, Hiệu trưởng Trường Đại học
Nông nghiệp Hà Nội ra Quyết định số 762/QĐ – NNH đổi tên Khoa Mác –
Lênin thành Khoa Lý luận chính trị và Xã hội và các Quyết định thành lập các
bộ môn giảng dạy các môn học lý luận chính trị trong nhà trường gồm Bộ môn
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, Bộ môn Tư tưởng Hồ Chí
Minh và Bộ môn Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam. Ngày 15

15

tháng 6 năm 2009 Bộ Giáo Dục và Đào tạo ban hành Quyết định số 410/QĐ –
BGD&ĐT về các ngành đào tạo mới của Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội.
Theo quyết định của Bộ, Khoa Lý luận chính trị và Xã hội có nhiệm vụ trực tiếp

đào tạo hệ cử nhân thuộc chuyên ngành Xã hội học trong Trường Đại học Nông
nghiệp Hà Nội. Trong đợt tuyển sinh hệ đại học chính quy năm 2009, Nhà
trường đã thực hiện tuyển sinh ngành Xã hội học đầu tiên, kết quả năm học
2009 – 2010, Khoa Lý luận chính trị và Xã hội đã mở được một lớp học ngành
Xã hội học nông thôn gồm 87 sinh viên vào học.
Mục tiêu của Khoa là mở chuyên ngành đào tạo Xã hội học nông thôn,
theo đó phương hướng nghiên cứu khoa học là các vấn đề xã hội thuộc khu vực
nông thôn, miền núi trên cơ sở đó tạo ra những điều kiện khoa học cho việc dạy
và học chuyên ngành đào tạo mới. Là một khoa trong trường chuyên môn sâu
về nông nghiệp và nông thôn, làm nhiệm vụ giảng dạy về các môn học lý luận
và khoa học xã hội thì việc nghiên cứu đảm bảo những mục tiêu yêu cầu đặt ra
là một vấn đề khó khăn đối với sinh viên. Bên cạnh đó, sự thay đổi lớn về mục
tiêu, nội dung, chương trình – hình thành các môn học liên ngành, tích hợp do
sự bùng nổ thông tin và sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ , làm
thay đổi phương pháp, phương tiện dạy và học đòi hỏi sinh viên ngành Xã hội
học phải tăng cường khả năng học tập mới có thể đáp ứng được. Khi tiến hành
hoạt động học tập sinh viên ngành Xã hội học không chỉ có năng lực nhận thức
thông thường mà cần tiến hành hoạt động nhận thức mang tính chất nghiên cứu
trên cơ sở khả năng tư duy, độc lập sáng tạo ở mức độ cao. Dưới sự hướng dẫn
của giảng viên, sinh viên không chỉ máy mọc tiếp thu những tri thức có sẵn mà
có khả năng tiếp nhận những tri thức với óc phê phán và hoài nghi khoa học, lật
ngược vấn đề, đào sâu hoặc mở rộng. Điều này giúp sinh viên từng bước vận
dụng những tri thức khoa học, hình thành những phẩm chất tác phong của nhà
nghiên cứu nhằm góp phần giải quyết những vấn đề do thực tiễn cuộc sống xã
hội, nghề nghiệp đặt ra.

16