Chúa Giêsu có thật trong lịch sử không

Giêsu (chữ Nôm: 支秋,[7] còn được viết là Giê-su, Giê-xu, Yêsu, Jesus, Gia-tô[8]; khoảng 4 TCN – 3 tháng 4, 33 SCN), còn được gọi là Giêsu Kitô, Jesus Christ, hay Gia-tô Cơ-đốc là một nhân vật lịch sử người Do Thái, nhà giảng thuyết, người sáng lập ra Kitô giáo vào thế kỉ thứ 1. Tên gọi Giêsu trong tiếng Hebrew có nghĩa là Yehoshua (יהושע – "Đức Chúa là Đấng Cứu Độ"), thường được gọi vắn tắt là Yeshua (ישוע). Đối với người đương thời, Giêsu còn được gọi là Giêsu thành Nazareth, hoặc Giêsu con ông Giuse. Từ Kitô (tiếng Latinh: Christus, tiếng Hy Lạp: Χριστός Khristós, hay Cơ-đốc theo phiên âm Hán Việt) là một danh hiệu của Giêsu, có nghĩa là "người được xức dầu", nhằm chỉ ông là đấng Messiah, đã được tiên báo trong Cựu Ước. Những gì chúng ta biết được về Giêsu là do được ghi chép trong Thánh Kinh Tân Ước, đặc biệt là trong bốn sách Phúc Âm.

Chúa Giêsu có thật trong lịch sử không

Giêsu

Tranh khảm Chúa Kitô Toàn năng theo nghệ thuật Byzantine, tại Vương cung thánh đường chính tòa Cefalù, Sicilia, Ý, khoảng năm 1130

Sinhkhoảng 4 TCN [a]
Vương quốc Judea, Đế quốc La Mã[5]Mất3 tháng 4, 33 SCN[b] (33–37 tuổi)
Jerusalem, Judea, Đế quốc La MãNguyên nhân mấtĐóng đinh trên cây thập tựNơi an nghỉTheo truyền thống, Nhà thờ Mộ Thánh[6]Dân tộcDo TháiNghề nghiệpNhà thuyết giảng
Người chữa lànhQuê quánNazareth, Galilea (nay thuộc Israel)
Chúa Giêsu có thật trong lịch sử không
Giêsu

Những nguồn thông tin chính về cuộc đời và những lời dạy của Giêsu là bốn sách Phúc Âm quy điển, đặc biệt là trong Phúc Âm Nhất Lãm,[9][10] mặc dù nhiều học giả cho rằng những văn bản như Phúc Âm Tôma và Phúc Âm Hebrew[11][12] cũng xác đáng.[13]

Trong Hồi giáo, Giêsu (tiếng Ả Rập: عيسى‎, chuyển tự là Isa) được xem là một nhà tiên tri quan trọng của Thiên Chúa[14][15], người mang lại Injil (Phúc Âm), và là người làm những phép lạ. Hồi giáo cũng xưng nhận Giêsu là Đấng Masih (Messiah), nhưng họ không dạy rằng Giêsu mang đặc tính thần linh. Quan điểm của Hồi giáo cho rằng Giêsu đã lên thiên đường cả linh hồn và thể xác nhưng không trải qua việc đóng đinh vào thập tự giá và phục sinh,[16] khác với niềm tin truyền thống của Kitô giáo về cái chết và sự phục sinh của Giêsu.

 

Tiếng Hebrew, Hy Lạp và phiên âm Latin tên của Chúa Giêsu

Người Do Thái đương thời thường thêm tên người cha hoặc tên quê quán vào tên gọi cá nhân.[17] Như vậy, trong Tân Ước, Giêsu cũng được gọi là "Giêsu thành Nazareth" (Mátthêu 26:71)[18], "con ông Giuse" (Lc 4:22) hoặc đầy đủ nhất là "Giêsu con ông Giuse thành Nazareth" (Ga 1:45)[19]. Tuy nhiên, trong Máccô 6:3 thì lại gọi là "con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Giôxết, Giuđa và Simon"[20]. Tên Giêsu ngày nay trong các ngôn ngữ hiện đại có nguồn gốc từ Iesus trong tiếng Latinh, đây là một hình thức chuyển tự của chữ Ἰησοῦς (Iesous) từ tiếng Hy Lạp.[21] Hình thức thể hiện của tiếng Hy Lạp lại bắt nguồn từ chữ ישוע (Yeshua) trong tiếng Aram, nhưng tựu trung có nguồn gốc từ chữ יהושע (Yehoshua) của tiếng Do Thái.[22][23] Tên Yeshua dường như đã được sử dụng trong xứ Judea tại thời điểm Giêsu ra đời.[24] Theo giải thích của Tân Ước, tên gọi này nghĩa là "Giavê là sự cứu rỗi".[25]

Các tín đồ sơ khai đã thường gọi là "Chúa Giêsu Kitô".[26] Từ Ki-tô (hay Ki-ri-xi-tô, chữ Nôm: 基移吹蘇), cũng phiên âm là Cơ-đốc (hay Cơ-lợi-tư-đốc, chữ Hán: 基利斯督), không phải là tên nhưng là một danh hiệu. Trong tiếng Hy Lạp, Χριστός (Khristos) có nghĩa là "người được xức dầu", được dịch từ tiếng Hebrew Messiah, để gọi vị lãnh đạo được Thiên Chúa sai đến giải cứu dân Chúa, trong ngôn ngữ hiện đại được hiểu là "Đấng cứu thế".[21][27] Chữ Kitô hữu được chỉ những người tin và theo Chúa Kitô.

Theo ký thuật của các sách Phúc Âm, Giêsu xưng mình là Con người (the Son of man - tức "Con của loài người", "Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con người không có chỗ tựa đầu" - Mt 8:20). Danh xưng này thường được cho là để khẳng định Giêsu là một con người trọn vẹn cũng như Giêsu được gọi là Con Thiên Chúa (the Son of God, "Quả thật, người này là Con Thiên Chúa" - Mt 27:54) để khẳng định Giêsu đồng thời cũng là Thiên Chúa cách trọn vẹn.[28].

Ngoài ra, Giêsu còn có một số danh xưng khác như "Đấng Tiên tri", "Chúa". Trong Phúc Âm Gioan 14:6 chép: "Đức Chúa Giêsu phán rằng: Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy" (Ga 14:6). Theo đức tin Kitô giáo, Giê-su là con Đức Chúa Trời, và được sinh ra trên Trái Đất và chịu đóng đinh, để cứu chuộc nhân loại khỏi tội lỗi, nên Giê-su còn được xưng tụng là Đấng Cứu Thế, Đấng Cứu Rỗi, Cứu Chúa - "Nhưng Thiên Chúa tỏ lòng yêu thương của Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Chúa Cơ Đốc vì chúng ta chịu chết". (Roma 5:8).

Hầu hết các học giả đồng ý rằng Giêsu là một người Do Thái vùng Galilea, sinh vào khoảng đầu thế kỷ thứ nhất và qua đời trong khoảng từ năm 30 đến 36 SCN tại xứ Judea, ông chỉ sống và hoạt động tại Galilea và Judea chứ không ở nơi khác[29][30]. Các sách Phúc Âm chỉ tập trung vào quãng đời ba năm cuối khi Giêsu sống dưới trần gian, đặc biệt là tuần lễ cuối cùng trước khi bị đóng đinh vào thập giá, nhưng chúng cũng cung cấp một số manh mối liên quan đến năm sinh của Chúa Giêsu. Đoạn Mátthêu 2:1 liên kết sự giáng sinh của Chúa Giêsu với sự cai trị của Herod Đại đế - người đã chết vào khoảng năm thứ 4 trước Công nguyên, và đoạn Luca 1:5 viết rằng Herod đã trị vì trước khi Chúa Giêsu giáng sinh, ngoài ra Phúc Âm này còn đề cập đến cuộc điều tra dân số của chính quyền La Mã diễn ra mười năm sau đó. Luke 3:1-2 và 3:23 viết rằng Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ khi ông khoảng ba mươi tuổi, và đó là năm thứ 15 của triều đại Tiberius (khoảng năm 28 hoặc 29 Công Nguyên). Qua những chi tiết này và bằng các phương pháp phân tích khác nhau, hầu hết các học giả đi đến đồng thuận rằng Chúa Giêsu sinh trong khoảng từ năm thứ 6 đến 4 trước Công nguyên,[31]

Về thời điểm qua đời, tức là sự kiện ông bị đóng đinh trên cây thập giá, hầu hết các học giả đồng ý rằng sự kiện này xảy ra trong khoảng từ năm 30 đến 33 Công nguyên.[32][33] Các sách Phúc Âm nói rằng sự kiện này xảy ra trong thành xứ Judea mà Pilate là tổng trấn thuộc quyền La Mã khoảng năm 26-36.[34] Người ta tin rằng ngày mà Phaolô theo Kitô giáo (ước tính khoảng năm 33-36) có mối liên hệ nào đó đến cho ngày Chúa Giêsu bị đóng đinh qua việc phân tích thư của Thánh Phaolô và Sách Công vụ Tông đồ.[35] Các nhà thiên văn từ thời Isaac Newton đã cố gắng ước lượng chính xác ngày Chúa Giêsu bị đóng đinh bằng cách phân tích chuyển động của Mặt Trăng và tính theo lịch sử của lễ Vượt Qua theo lịch của người Do Thái. Và ngày giả thiết được chấp nhận rộng rãi nhất theo phương pháp này là ngày 7 tháng 4, năm 30 AD; và ngày 3 tháng 4 năm 33 (kể cả lịch Julius).

Trong Kinh thánh Tân Ước, cuộc đời và tư tưởng của Giêsu được giao giảng lại theo các sách Phúc Âm (bao gồm: Phúc Âm Mátthêu, Phúc Âm Máccô, Phúc Âm Luca và Phúc Âm Gioan), ngoài kinh thánh Tân Ước, cuộc đời chúa Giê-su còn có trong thư tín của Thánh Phaolô được viết trước sách Phúc Âm nhiều thập kỷ, bao gồm nhiều chi tiết quan trọng như "Bữa ăn tối cuối cùng".[36][37] Trong Sách Công vụ Tông đồ có đề cập đến các sứ mệnh và các tiên đoán về Giêsu bởi Gioan Tẩy Giả.

Gia phả và giáng sinh

Giê-su là một người Do Thái tôn trọng luật pháp Moses (kinh Torah), là nhà thuyết giáo và người chữa bệnh bằng phép mầu, cũng là người thường bất đồng với giáo quyền Do Thái, và cuối cùng, là người bị đóng đinh trên thập tự giá dưới phán quyết của chính quyền Đế quốc La Mã theo ý giáo quyền Do Thái.

Theo đó, Giêsu sinh tại Belem (gần Jerusalem). Mẹ của Giêsu, Maria (Mary), là một phụ nữ đồng trinh đã mang thai bởi quyền năng siêu nhiên của Chúa Thánh Linh. Giuse (Joseph), chồng của Maria, chỉ được nhắc đến trong thời thơ ấu của Giêsu, dẫn đến những suy đoán rằng ông qua đời trước khi Giêsu bắt đầu đi giảng dạy.[38][39] Theo các sách Phúc Âm, khi Giêsu sinh ra, các mục đồng được thiên sứ báo tin đã đến thờ lạy và những nhà thông thái (còn gọi là những nhà chiêm tinh, những đạo sĩ, hoặc ba vua) từ phương Đông xa xôi, được dẫn dắt bởi một ngôi sao lạ, đã tìm đến để tôn thờ Giêsu.

Phúc Âm Máccô 6:3 ký thuật rằng "Giêsu là con của Maria, anh của Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon". Josephus, sử gia Do Thái, và Eusebius, sử gia Kitô giáo, có nhắc đến Người Công chính như là em ruột của Giêsu. Tuy nhiên, Hieronymus cho rằng Giacôbê chỉ là em họ của Giêsu. Cách giải thích này đặt nền tảng cho truyền thống Công giáo Rôma và Chính Thống giáo Đông phương tin rằng Maria đồng trinh trọn đời.

Thời niên thiếu

 

Tìm thấy Giêsu lúc 12 tuổi trong Đền Thờ, tranh của James Tissot.

Giêsu trải qua thời niên thiếu tại làng Nazareth thuộc xứ Galilea. Chỉ có một sự kiện xảy ra trong thời gian này được ghi lại là khi cậu bé Giêsu theo gia đình lên Jerusalem trong một chuyến hành hương. Bị thất lạc khỏi cha mẹ, cuối cùng cậu bé Giêsu 12 tuổi được tìm thấy trong Đền thờ Jerusalem, đang tranh luận với các học giả Do Thái giáo.

Rửa Tội

Ngay sau khi chịu lễ Thanh Tẩy (lễ Rửa Tội) bởi Gioan Baotixita, Giêsu bắt đầu đi rao giảng, khi ấy khoảng ba mươi tuổi. Theo Phúc Âm Luca, Giêsu và Gioan Baotixita là anh em họ vì Maria và Elizabeth, mẹ của Gioan, là hai chị em họ.

 

Phúc Âm Luca viết trên một giấy cói bằng chữ Hy Lạp ở thế kỷ thứ III

Sứ mệnh và giáo vụ của Giêsu

Theo Kinh Thánh, Giêsu đã cùng các môn đồ đi khắp xứ Galilea để giảng dạy và chữa bệnh. Cung cách giảng dạy mang thẩm quyền, uy lực cùng với kỹ năng diễn thuyết điêu luyện, Giêsu sử dụng các dụ ngôn để giảng dạy quan điểm về tình yêu thương nên đã thu hút rất nhiều người. Họ tụ họp thành đám đông và tìm đến bất cứ nơi nào Giêsu có mặt. Đôi khi đám đông trở nên mất trật tự và ông buộc phải ngồi trên thuyền mà giảng dạy. Giêsu cũng tìm đến và thuyết giáo tại các hội đường Do Thái giáo (synagogue).

Giêsu áp dụng các phương pháp khác nhau khi giảng dạy, phép nghịch lý, phép ẩn dụ và các truyện dụ ngôn. Ông thường tập trung vào Nước Trời (hay Thiên Quốc). Nổi tiếng nhất là Bài giảng trên núi, trong đó đề cập đến Tám Mối Phúc thật (Beatitudes). Trong số những dụ ngôn của Giêsu, được biết đến nhiều nhất là hai câu chuyện: Người Samaria nhân lành và Người con trai hoang đàng. Giêsu có nhiều môn đồ, thân cận nhất là mười hai sứ đồ (hoặc tông đồ), Phêrô được Công giáo Rôma cho là sứ đồ trưởng. Theo Tân Ước, Giêsu làm nhiều phép lạ như chữa bệnh, đuổi tà ma và khiến một người đàn ông tên là Lazarô sống lại khi đã chết.

Giới lãnh đạo Do Thái giáo bao gồm các nhóm quyền lực đối nghịch nhau như nhóm Sadducee và nhóm Pharisêu (Pharisee) thường bất đồng với Giêsu. Ông vẫn thường vạch trần tính chuộng hình thức cũng như tinh thần đạo đức giả của người Pharisêu. Nhiều người xem Giêsu như một nhà cải cách xã hội, những người khác tỏ ra nhiệt tình vì tin rằng ông là vị vua đến để giải phóng dân Do Thái khỏi ách thống trị của Đế quốc La Mã, trong khi giới cầm quyền xem Giêsu như một thế lực mới đang đe dọa những định chế tôn giáo và chính trị đương thời. Nhiều người tin nhận Giêsu là "Đấng Cứu Tinh" (Messie, Messiah) đến để cứu chuộc nhân loại.

Bị bắt và bị xét xử

Giêsu cùng các môn đồ lên thành Jerusalem vào dịp Lễ Vượt Qua (Passover); ông vào Đền thờ Jerusalem, đánh đuổi những người buôn bán và những kẻ đổi tiền, lật đổ bàn của họ và quở trách họ rằng: "Nhà ta được gọi là nhà cầu nguyện nhưng các ngươi biến thành hang ổ của bọn trộm cướp". Sau đó, Giêsu bị bắt giữ theo lệnh của Toà Công luận (Sanhedrin) bởi viên Thượng tế Joseph Caiaphas. Trong bóng đêm của khu vườn Getsemani ở ngoại ô Jerusalem, lính La Mã nhận diện Giêsu nhờ cái hôn của Judas Iscariot, một môn đồ đã phản ông để nhận được tiền.

Tòa công luận cáo buộc Giêsu tội phạm thượng và giao ông cho các quan chức Đế quốc La Mã để xin y án tử hình, không phải vì tội phạm thượng nhưng vì cáo buộc xúi giục nổi loạn. Dưới áp lực của giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái, Tổng đốc Pontius Pilatus (Philatô) miễn cưỡng ra lệnh đóng đinh Giêsu. Tuy nhiên, theo các sách Phúc Âm, một tấm bảng có hàng chữ viết tắt INRI (của câu: "Giêsu người Nazareth, vua dân Do Thái") được treo trên thập tự giá theo lệnh của Pilate.

Sau khi Giêsu chết, Giuse người Arimathea đến gặp Pilate và xin được phép chôn với sự chứng kiến của Maria, Maria Magdalena và những phụ nữ khác.

Phục sinh và Lên Trời

 

Chúa Giêsu hiện lên với Maria Madalena, tranh 1835 do Alexander Andreyevich Ivanov vẽ.

Các Kitô hữu tin rằng Giêsu sống lại vào ngày thứ ba sau khi chết trên thập tự giá. Sự kiện này được đề cập đến theo thuật ngữ Kitô giáo là sự phục sinh của Giêsu, được cử hành hằng năm vào ngày Lễ Phục sinh.

Trong Kinh Thánh, Maria Madalena (đi một mình trong Phúc Âm Gioan nhưng có những người phụ nữ khác đi cùng trong Phúc Âm Nhất Lãm) đến ngôi mộ của Giêsu vào sáng sớm ngày Chủ nhật và bất ngờ thấy ngôi mộ rỗng. Mặc dù đã nghe lời dạy của Chúa Giêsu, các môn đệ vẫn không hiểu rằng Chúa Giêsu sẽ trỗi dậy.

  • Trong Phúc Âm Mátthêu, có các lính canh ở ngôi mộ. Một thiên thần từ trời xuống và mở ngôi mộ, khiến lính canh ngất vì hoảng sợ. Giêsu hiện ra với hai bà Maria. Sau đó, Giêsu hiện ra với mười một môn đệ còn lại, truyền lệnh cho họ đi rao giảng và rửa tội cho muôn dân nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần.
  • Trong Phúc Âm Máccô, Maria Madalena và Maria, mẹ của Giacobê, và Salome khi đến thăm mộ với thuốc thơm để xức xác ông (theo tục lệ thời ấy) thì chỉ thấy ngôi mộ trống mà trước đó họ đã an táng ông trong đó. Về phần các Tông đồ, thì họ ra đi giảng đạo khắp mọi nơi, Chúa cùng đi với các Tông đồ, và lấy các phép lạ cặp theo lời giảng mà làm cho vững đạo. Và Giêsu luôn ở cùng các ông cho đến ngày tận thế.
  • Phúc Âm Gioan thuật rằng khi Maria Madalena đến bên ngôi mộ trống thì thấy hai thiên sứ mặc áo trắng. Hai thiên sứ hỏi: "Hỡi người đàn bà kia, sao ngươi khóc? Người thưa rằng: Vì người ta đã dời Chúa tôi đi, không biết để Ngài ở đâu". Vừa nói xong người đàn bà quay lại, thấy Đức Chúa Giêsu tại đó; nhưng chẳng biết ấy là Đức Chúa Giêsu. Các sách Phúc Âm và Công vụ đều ghi nhận rằng Giêsu đã gặp lại các môn đệ tại các nơi chốn khác nhau trong suốt bốn mươi ngày trước khi về trời.

Hầu hết Kitô hữu chấp nhận câu chuyện phục sinh, như được ký thuật trong Tân Ước, là sự kiện lịch sử và xem đây là tâm điểm cho Đức tin Kitô giáo của họ mặc dù theo quan điểm của một số tín hữu thuộc trào lưu tự do (liberalism), đây chỉ là câu chuyện có tính ẩn dụ. Tuy nhiên lịch sử chứng minh đây là niềm tin bất di dịch của Kitô giáo. Tất cả Kitô hữu tin rằng Giêsu đã làm nhiều dấu kỳ phép lạ và các tông đồ được ban cho quyền lực siêu nhiên bởi ơn Chúa Thánh Thần để chữa lành bệnh tật cho nhiều người và nói được nhiều thứ tiếng khác nhau sau khi Giêsu về trời.

 

Xứ Palestine thời Giêsu sống

Thế giới đương thời mà Giêsu sống luôn biến động, được đánh dấu bởi những bế tắc nối tiếp nhau cả về văn hoá và chính trị. Về văn hoá, vì người Do Thái phải vật lộn với nền triết học và các giá trị của văn minh Hy Lạp và với sự mâu thuẫn nội tại của kinh Torah, vì trong khi kinh Torah mặc khải các chân lý có giá trị cho toàn thể nhân loại thì các luật lệ của nó chỉ áp dụng riêng cho người Do Thái. Tình thế này dẫn dắt họ đến những cách giải kinh mới chịu ảnh hưởng của tư tưởng Hy Lạp và nhằm đáp ứng quyền lợi của người không thuộc chủng tộc Do Thái đã gia nhập Do Thái giáo.

Vào thời điểm Giêsu sinh ra, lãnh thổ Israel thuộc Đế quốc La Mã, nhưng đặt dưới quyền cai trị của Herôđê Đại Đế. Vào năm 4, Hoàng đế La Mã Augustus phế truất Herod Archelaus, con của Herôđê Đại Đế và đặt các xứ Judea, Samaria và Idumea dưới quyền cai trị trực tiếp của chính quyền La Mã, được giám sát bởi một quan tổng đốc, người này có quyền bổ nhiệm chức Thượng tế của Do Thái giáo. Tình trạng này kéo dài cho đến năm 64. Xứ Galilea, nơi Giêsu lớn lên, vẫn dưới quyền cai trị của Herod Antipas (một người con khác của Herôđê Đại Đế). Khi ấy Nazareth là một làng quê nhỏ bé với vài trăm cư dân, không có hội đường Do Thái giáo (synagogue), cũng không có cơ sở công cộng nào. Không có vàng, bạc hay sản phẩm nhập khẩu được tìm thấy ở đây trong cuộc khai quật khảo cổ.

Vài phe nhóm tranh giành ảnh hưởng với nhau trong cộng đồng Do Thái như nhóm Saducee, có quan hệ mật thiết với giới tư tế và Đền thờ, trong khi nhóm Pharisêu có nhiều ảnh hưởng trong vòng các học giả, giáo sư và lãnh đạo các hội đường. Các nhóm này chống đối sự chiếm đóng của Đế quốc La mã nhưng vào thời Giêsu họ vẫn cố kềm chế để không có phản ứng công khai nào.

Nhiều người kỳ vọng vào sự xuất hiện của một vị Cứu Tinh (Messiah), hậu duệ của vua David để giải phóng họ khỏi sự cai trị của người La Mã. Theo đức tin Do Thái, lịch sử được điều khiển bởi Thiên Chúa, có nghĩa là sự chiếm đóng của người La Mã là một phần trong hoạch định của Ngài. Vì vậy đế quyền La Mã cần được thay thế bởi một vị vua Do Thái nhờ sự can thiệp siêu nhiên. Những người thuộc nhóm quá khích tin rằng chẳng bao lâu Vương quốc Do Thái sẽ được phục hồi và họ chuẩn bị các phương tiện để chống người La Mã. Các phản ứng của người La Mã cuối cùng dẫn đến sự phá đổ Đền thờ và sự suy vong của các nhóm kể trên.

Theo hầu hết các giải thích Kinh Thánh của Kitô giáo, các chủ đề cơ bản của những lời răn dạy của Giêsu là sự hối cải, tình yêu vô điều kiện, tha thứ tội lỗi và khoan dung và về Thiên đường.[40] Khởi đầu như một giáo phái nhỏ của người Do Thái,[41] nó đã phát triển và trở thành một tôn giáo riêng biệt so với đạo Do Thái vài thập kỷ sau cái chết của Giêsu. Kitô giáo đã lan rộng ra khắp đế chế La Mã dưới dạng được biết đến qua Tín điều Nicea và trở thành quốc giáo dưới thời Theodosius I. Qua hàng thế kỷ, nó lan rộng đến hầu hết châu Âu và trên toàn thế giới. C. S. Lewis và Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã bảo vệ niềm tin vào Giêsu trước những sự chỉ trích mang tính lịch sử.

Hầu hết Kitô hữu tin rằng, Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng Messiah mà sự xuất hiện đã được tiên báo trong Cựu Ước. Họ tin rằng Giêsu là Thiên Chúa hóa thân thành người, là Ngôi Hai trong Ba Ngôi; rằng Giêsu nhập thể bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, xuống thế gian để cứu nhân loại khỏi tội lỗi và sự chết bởi máu của Giêsu đã đổ ra khi bị đóng đinh trên thập tự giá như là sinh tế chuộc tội cho loài người. Họ cũng tin rằng Giêsu đã sống lại từ cõi chết và sau đó trở lại Thiên Đàng.

Hồi giáo

Khác với đức tin của người Kitô giáo, tín đồ Hồi giáo tin rằng, Giêsu là một trong những nhà tiên tri (ngôn sứ) đáng được tôn trọng, được Thiên Chúa sai đến và là Đấng Messiah; nhưng họ không tin Giêsu là "Con Thiên Chúa". Họ cũng không tin về sự chết và sự phục sinh của Giêsu, xem đó chỉ là sự hóa phép của Thiên Chúa dành cho tiên tri Giêsu để đánh lừa người đương thời. Sau đó, Giêsu về trời cả hồn lẫn xác.

Do Thái giáo

Do Thái giáo thì cực lực phản đối cả hai niềm tin của hai tôn giáo trên. Họ không xem Giêsu là Thiên Chúa xuống thế làm người cũng không nhận đó là nhà tiên tri, thậm chí coi đó là nhà tiên tri giả hay kẻ xúc phạm đến Thiên Chúa của họ. Họ cho rằng, kể từ sau sự sụp đổ lần thứ hai của Đền thờ Jerusalem, không có một tiên tri nào xuất hiện thêm nữa. Cho đến tận bây giờ, họ vẫn đang hy vọng có một Đấng Messiah từ trời xuống.

Phật giáo

Phật giáo hầu như không đưa ra nhận định về vai trò của Giêsu trong tôn giáo họ. Đối với họ, dựa theo lịch sử, Giêsu chỉ là một con người. Tuy nhiên, một số tín đồ thuộc một số phái cho rằng, với những đức tính hiển nhiên của Giêsu, chắc chắn sau đó Giêsu cũng được sinh vào cõi trời dựa theo luật nhân quả. Do đó, những người tu theo Phật giáo cấp tiến, nhất là Tịnh độ tông, có thể tôn kính Giêsu như một vị A-la-hán hay Bồ tát[42].

Một số Phật tử, trong đó có Tenzin Gyatso, Đạt-lại Lạt-ma thứ 14[43] xem Giêsu như một vị đại Bồ tát, người cống hiến đời mình cho hạnh phúc của nhân loại. Nga Sơn Thiều Thạc ở thế kỷ XIV của Tào Động tông ngụ ý rằng những lời dạy của Giêsu trong Sách Phúc Âm do một người đã được giải thoát (arahant) viết.[44]

Khác

Một người Nhật theo chủ nghĩa vô chính phủ, Kōtoku Shūsui có viết tác phẩm Kirisuto Massatsuron (基督抹殺論, Cơ Đốc Mạt Sát Luận). Trong tác phẩm này, Shūsui cho rằng Giêsu chỉ là một nhân vật thần thoại và không có thực.[45][46].

Vì có vai trò đặc biệt trong một số tôn giáo này, Giêsu được nhìn nhận là một trong những nhân vật quan trọng nhất và có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong lịch sử nhân loại.

  • Cuộc đời Giêsu theo Tân Ước
    • Sự giáng sinh của Giêsu
    • Các dụ ngôn của Chúa Giêsu
    • Tiệc Ly
    • Cuộc thương khó và khổ hình của Giêsu
    • Sự phục sinh của Giêsu
  • Chúa Cha
  • Chúa Thánh Linh
  • Kitô giáo
  • Cứu rỗi
  • Mười hai sứ đồ
  • Những người xưng là Giê-su

  1. ^ Meier viết rằng năm sinh của Giê-su là k. 7 hay 6 TCN.[1] Rahner cùng với các học giả khác khẳng định là k. 4 TCN.[2] Sanders cũng đồng tình là k. 4 TCN.[3] Finegan đã thực hiện việc nghiên cứu các truyền thống Cơ đốc giáo ban đầu cho rằng là k. 3 hay 2 TCN.[4]
  2. ^ Hầu hết các học giả ước tính năm 33 SCN là năm Giê-su bị đóng đinh.

  1. ^ Meier, John P. (1991). A Marginal Jew: The Roots of the Problem and the Person. Yale University Press. tr. 407. ISBN 978-0-300-14018-7.
  2. ^ Rahner 2004, tr. 732.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFRahner2004 (trợ giúp)
  3. ^ Sanders 1993, tr. 10–11.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFSanders1993 (trợ giúp)
  4. ^ Finegan 1998, tr. 319Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFFinegan1998 (trợ giúp)
  5. ^ Brown, Raymond E. (1977). The birth of the Messiah: a commentary on the infancy narratives in Matthew and Luke. Doubleday. tr. 513. ISBN 978-0-385-05907-7.
  6. ^ Eusebius, Life of Constantine
  7. ^ 支秋 có âm Hán-Việt là Chi-thu nhưng đọc theo âm Nôm là Giê-su. Tham khảo: Girolamo Maiorica. 徳主支秋巻之二 Đức Chúa Giê-su quyển chi nhị.
    Trần Văn Toàn (2005). "Tự vị Taberd và di sản văn hóa Việt Nam".
    Hoàng Xuân Việt (2006). Tìm hiểu lịch sử chữ Quốc ngữ. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin. Tr. 99.
  8. ^ Gia-tô hoặc Da-tô là phiên âm Hán-Việt của 耶穌 (phồn thể) hay 耶稣 (giản thể), pinyin: Yēsū.
  9. ^ "The Gospel of John is quite different from the other three gospels, and it is primarily in the latter that we must seek information about Jesus." Sanders (1993), p. 57.
  10. ^ Funk, Robert W.; Seminar, Jesus (1998). Introduction. The acts of Jesus: the search for the authentic deeds of Jesus. San Francisco: HarperSanFrancisco. tr. 1–40. ISBN 978-0-06-062978-6.
  11. ^ P. Parker, A Proto-Lukan Basis for the Gospel According to the Hebrews Journal of Biblical Literature, Vol. 59, No. 4 (Dec., 1940), pp. 471-473
  12. ^ J. R. Edwards, The Hebrew Gospel & the Development of the Synoptic Tradition, Eerdmans Publishing, 2009 pp. 1-376
  13. ^ Levine, Amy-Jill (1998). Coogan Michael D. (biên tập). Visions of Kingdoms: From Pompey to the First Jewish Revolt (63 TCN—70 CE). The Oxford History of the Biblical World. New York and Oxford: Oxford University Press. tr. 370–371. ISBN 978-0-19-508707-9.
  14. ^ Houlden, James L. (2005). Jesus: The Complete Guide. London: Continuum. ISBN 978-0-8264-8011-8.
  15. ^ Prof. Dr. Şaban Ali Düzgün (2004). “Uncovering Islam: Questions and Answers about Islamic Beliefs and Teachings”. Ankara: The Presidency of Religious Affairs Publishing. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2010.
  16. ^ “Compendium of Muslim Texts”. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2010.
  17. ^ Sanders, Ed P.; Pelikan, Jaroslav J. “Jesus Christ”. Encyclopædia Britannica. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2013.
  18. ^ “Chương 26 -”. thanhlinh.net.
  19. ^ “Gioan -”. thanhlinh.net.
  20. ^ “Chương 6 -”. thanhlinh.net.
  21. ^ a b   Maas, Anthony J. (1913). “Origin of the Name of Jesus Christ” . Catholic Encyclopedia. New York: Robert Appleton Company.
  22. ^ Ehrman, Bart D. (2012). Did Jesus Exist?: The Historical Argument for Jesus of Nazareth. HarperOne. tr. 29. ISBN 978-0-06-208994-6.
  23. ^ “Joshua”. Merriam-Webster. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2013.
  24. ^ Hare, Douglas (2009). Matthew. Westminster John Knox Press. tr. 11. ISBN 978-0-664-23433-1.
  25. ^ France 2007, tr. 53.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFFrance2007 (trợ giúp)
  26. ^ Doninger 1999, tr. 212.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFDoninger1999 (trợ giúp)
  27. ^ Heil, John P. (2010). Philippians: Let Us Rejoice in Being Conformed to Christ. Society of Biblical Lit. tr. 66. ISBN 978-1-58983-482-8.
  28. ^ Christian Theology: An Introduction by Alister E. McGrath 2010 ISBN 1-4443-3514-6 page 270
  29. ^ Green, Joel B.; McKnight, Scot; Marshall, I. Howard (1992). Dictionary of Jesus and the Gospels. InterVarsity Press. tr. 442. ISBN 9780830817771.
  30. ^ Borg, Marcus J. (2006). “The Spirit-Filled Experience of Jesus”. Trong Dunn, James D. G.; McKnight, Scot (biên tập). The Historical Jesus in Recent Research. tr. 303. ISBN 1-57506-100-7.
  31. ^ Dunn 2003, tr. 324.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFDunn2003 (trợ giúp)
  32. ^ Humphreys, Colin J.; Waddington, W. G. (1992). “The Jewish Calendar, a Lunar Eclipse and the Date of Christ's Crucifixion” (PDF). Tyndale Bulletin. 43 (2): 340.
  33. ^ Köstenberger, Kellum & Quarles 2009, tr. 398.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFKöstenbergerKellumQuarles2009 (trợ giúp)
  34. ^ Green, Joel B. (1997). The gospel of Luke: New International Commentary on the New Testament Series. Wm. B. Eerdmans Publishing. tr. 168. ISBN 978-0-8028-2315-1.
  35. ^ Barnett, Paul (2002). Jesus & the Rise of Early Christianity: A History of New Testament Times. InterVarsity Press. tr. 21. ISBN 978-0-8308-2699-5.
  36. ^ “Blomberg 2009”.
  37. ^ “The people's New Testament commentary”.
  38. ^ “Sự giáng sinh của Giêsu theo Thánh Matthew”.
  39. ^ “Sự giáng sinh của Giêsu theo Thánh Luca”.
  40. ^ Sniegocki, John. "Review of Joseph GRASSI, Peace on Earth: Roots and Practices from Luke's Gospel," Collegeville, Minnesota: Liturgical Press, 2004 (repentance, forgiveness); Bock, Darrell L. "Major Themes of Jesus' life", (coming of the Kingdom of God); Brussat, Frederic and Mary Ann. "Review of If Grace Is So Amazing, Why Do not We Like It?," (grace); Hughes, F. A. "Grace and Truth", Stem Publishing 1972 (grace)
  41. ^ Duhaime, Jean; Blasi, Anthony J.; Turcotte, Paul-André (2002). Handbook of early Christianity: social science approaches. Walnut Creek, Calif: AltaMira Press. tr. 434. ISBN 0759100152.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  42. ^ “Phật giáo Việt Nam - Phật giáo Việt Nam”.
  43. ^ Beverley, James A., Hollywood's Idol, Christianity Today, "Jesus Christ also lived previous lives", he said. "So, you see, he reached a high state, either as a Bodhisattva, or an enlightened person, through Buddhist practice or something like that", Truy cập 20 tháng 4 năm 2007
  44. ^ 101 Zen Stories; #16
  45. ^ 基督抹殺論 Lưu trữ 2016-03-03 tại Wayback Machine(Iwanami Shoten, Publishers website, tiếng Nhật)
  46. ^ Kosaka Masaaki (31 Tháng ba 2021). “Japanese Thought In The Meiji Era Centenary Culture Council Series”. Pan-Pacific Press – qua Internet Archive.

  • Allison, Dale. Jesus of Nazareth: Millenarian Prophet. Minneapolis: Augsburg Fortress, 1999. ISBN 0-8006-3144-7
  • Brown, Raymond E. An Introduction to the New Testament. New York: Doubleday, 1997. ISBN 0-385-24767-2
  • Cohen, Shaye J.D.. From the Maccabees to the Mishnah. Philadelphia: Westminster Press, 1987. ISBN 978-0-664-21911-6
  • Cohen, Shaye J.D. The Beginnings of Jewishness: Boundaries, Varieties, Uncertainties. Berkeley: University of California Press, 2001. ISBN 0-520-22693-3
  • Crossan, John Dominic.
    • The Historical Jesus: The Life of a Mediterranean Jewish Peasant. New York: HarperSanFrancisco, 1993. ISBN 0-06-061629-6
    • Who Killed Jesus?: exposing the roots of anti-semitism in the Gospel story of the death of Jesus. San Francisco: HarperSanFrancisco, 1995. ISBN 978-0-06-061671-7
  • Davenport, Guy; and Urrutia, Benjamin (trans.) The Logia of Yeshua: The sayings of Jesus. Washington, DC: Counterpoint, 1996. ISBN 978-1-887178-70-9
  • De La Potterie, Ignace. The hour of Jesus: The passion and the resurrection of Jesus according to John. New York: Alba House, 1989. ISBN 978-0-8189-0575-9
  • Durant, Will. Caesar and Christ. New York: Simon and Schuster, 1944. ISBN 0-671-11500-6
  • Ehrman, Bart. The Lost Christianities: The Battles for Scripture and the Faiths We Never Knew. New York: Oxford University Press, 2003. ISBN 0-19-514183-0
  • Ehrman, Bart. The New Testament: A Historical Introduction to the Early Christian Writings. New York: Oxford University Press, 2003. ISBN 0-19-515462-2
  • Fredriksen, Paula. Jesus of Nazareth, King of the Jews: A Jewish Life and the Emergence of Christianity. New York: Vintage, 2000. ISBN 0-679-76746-0
  • Fredriksen, Paula. From Jesus to Christ: The origins of the New Testament images of Christ. New Haven: Yale University Press, 2000. ISBN 978-0-300-08457-3
  • Finegan, Jack. Handbook of Biblical Chronology, revised ed. Peabody, MA: Hendrickson Publishers, 1998. ISBN 1-56563-143-9
  • Fuller, Reginald H., The Foundations of New Testament Christology. New York: Scribners, 1965. ISBN 0-227-17075-X
  • Meier, John P., A Marginal Jew: Rethinking the Historical Jesus, New York: Anchor Doubleday,
V. 1, The Roots of the Problem and the Person, 1991. ISBN 0-385-26425-9 V. 2, Mentor, Message, and Miracles, 1994. ISBN 0-385-46992-6 V. 3, Companions and Competitors, 2001. ISBN 0-385-46993-4
  • O'Collins, Gerald. Interpreting Jesus. "Introducing Catholic theology". London: G. Chapman; Ramsey, NJ: Paulist Press, 1983. ISBN 978-0-8091-2572-2
  • Pelikan, Jaroslav. Jesus Through the Centuries: His Place in the History of Culture. New Haven: Yale University Press, 1999. ISBN 0-300-07987-7
  • Robinson, John A. T. Redating the New Testament. Eugene, OR: Wipf & Stock, 2001 (original 1977). ISBN 1-57910-527-0.
  • Sanders, E.P. The Historical Figure of Jesus. London: Allen Lane Penguin Press, 1993. ISBN 978-0-7139-9059-1
  • Sanders, E.P. Jesus and Judaism. Minneapolis: Fortress Press, 1987. ISBN 0-8006-2061-5
  • Theissen, Gerd; Merz, Annette (1998). The historical Jesus: a comprehensive guide. Minneapolis: Fortress Press. ISBN 0800631226.
  • Vermes, Géza. Jesus in his Jewish Context. Minneapolis: Augsburg Fortress, 2003. ISBN 0-8006-3623-6
  • Vermes, Géza. Jesus the Jew: A Historian's Reading of the Gospels. Minneapolis: Augsburg Fortress, 1981. ISBN 0-8006-1443-7
  • Vermes, Géza. The Religion of Jesus the Jew. Minneapolis: Augsburg Fortress, 1993. ISBN 0-8006-2797-0
  • Wilson, A.N. Jesus. London: Pimlico, 2003. ISBN 0-7126-0697-1
  • Wright, N.T. Jesus and the Victory of God. Minneapolis: Augsburg Fortress, 1997. ISBN 0-8006-2682-6
  • Wright, N.T. The Resurrection of the Son of God: Christian Origins and the Question of God. Minneapolis: Augsburg Fortress, 2003. ISBN 0-8006-2679-6

  • Complete Sayings of Jesus Christ In Parallel Latin & English — The Complete Christ Sayings
  • Jesus Christ Catholic Encyclopedia article
  • Christian Foundations: Jesus articles from a Protestant perspective
  • The Christ of India Lưu trữ 2008-05-26 tại Wayback Machine A Hindu perspective on Jesus
  • An Islamic perspective on Jesus
  • Ahmadiyya views on Jesus
  • Jesus Christ, the Son of God articles from a Mormon perspective
  • BiblicalStudies.org.uk Offers an extensive bibliography plus numerous full-text articles.
  • Christ, the Messenger— Swami Vivekananda
  • Overview of the Life of Jesus Lưu trữ 2008-06-09 tại Wayback Machine A summary of New Testament accounts.
  • From Jesus to Christ — A Frontline documentary on Jesus and early Christianity.
  • The Jewish Roman World of Jesus
  • The Jesus Puzzle Lưu trữ 2008-02-24 tại Wayback Machine — Earl Doherty's website.

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Giê-su&oldid=68168793”


Page 2

Năm 33 là một năm trong lịch Julius.

Thiên niên kỷ: thiên niên kỷ 1 Thế kỷ:
  • thế kỷ 1 TCN
  • thế kỷ 1
  • thế kỷ 2
Thập niên:
  • thập niên 10
  • thập niên 20
  • thập niên 30
  • thập niên 40
  • thập niên 50
Năm:
  • 30
  • 31
  • 32
  • 33 SCN
  • 34
  • 35
  • 36
33 trong lịch khácLịch Gregory33
XXXIIIAb urbe condita786Năm niên hiệu AnhN/ALịch ArmeniaN/ALịch Assyria4783Lịch Ấn Độ giáo - Vikram Samvat89–90 - Shaka SamvatN/A - Kali Yuga3134–3135Lịch Bahá’í−1811 – −1810Lịch Bengal−560Lịch Berber983Can ChiNhâm Thìn (壬辰年)
2729 hoặc 2669
    — đến —
Quý Tỵ (癸巳年)
2730 hoặc 2670Lịch Chủ thểN/ALịch Copt−251 – −250Lịch Dân Quốc1879 trước Dân Quốc
民前1879年Lịch Do Thái3793–3794Lịch Đông La Mã5541–5542Lịch Ethiopia25–26Lịch Holocen10033Lịch Hồi giáo607 BH – 606 BHLịch Igbo−967 – −966Lịch Iran589 BP – 588 BPLịch Julius33
XXXIIILịch Myanma−605Lịch Nhật BảnN/APhật lịch577Dương lịch Thái576Lịch Triều Tiên2366
  • 3 tháng 4 - Jesus: Nhân vật lịch sử người Do Thái, nhà thuyết giảng, người chữa lành và là người sáng lập ra Kitô giáo (s.6 TCN)

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=33&oldid=67480410”