Chỉ ra cách ngắt nhịp và những biện pháp nghệ thuật ở câu 2 bài Tự tình

1.1. Tìm hiểu chung

  • Hồ Xuân Hương (chưa rõ năm sinh năm mất) quê ở Nghệ An nhưng sống chủ yếu ở Thăng Long
  • Bà đi nhiều nơi và thân thiết với nhiều danh sĩ
  • Cuộc đời, tình duyên của Hồ Xuân Hương nhiều éo le, ngang trái
  • Được mệnh danh là "bà chúa thơ Nôm"
  • Tác phẩm: tương truyền có khoảng trên dưới 40 bài thơ Nôm, còn có tập Lưu Hương Kí gồm có 24 bài thơ chữ Hán và 26 bài thơ chữ Nôm
  • Nội dung sáng tác: thường viết về người phụ nữ với tiếng nói cảm thương sâu sắc; khẳng định đề cao vẻ đẹp và khát vọng của họ.
  • Phong cách nghệ thuật: trào phúng mà trữ tình đậm đà chất văn học dân gian từ đề tài, cảm hứng đến ngôn ngữ, hình tượng.
  • Xuất xứ: nằm trong chùm thơ "Tự tình" gồm 3 bài của Hồ Xuân Hương.
  • Thể loại: Thất ngôn bát cú Đường luật
  • Chủ đề: Bài thơ bày tỏ nỗi lòng của tác giả trước duyên phận hẩm hiu

1.2. Đọc - Hiểu văn bản

"Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan với nước non."

  • Thời gian: Đêm khuya → thời điểm nửa đêm về sáng, là khoảng thời gian con người đối diện với chính mình với những suy tư, trăn trở.
  • Không gian: tĩnh mịch, vắng lặng, quạnh hiu với âm thanh "văng vẳng" của tiếng "trống canh"
  • Từ "dồn": Nhịp điệu gấp gáp, hối hả → bước đi của thời gian ⇒ Đó cũng chính là tâm trạng rối bời, vừa lo âu vừa buồn bã của con người ý thức được sự chảy trôi của thời gian, đời người
  • Từ "trơ":
    • Có nghĩa là phơi ra, bày ra + "cái hồng nhan"; "với nước non" thể hiện sự dãi dầu sương gió → sự tủi hổ, bẽ bàng
    • Trơ trọi, lẻ bóng + thủ pháp đối: "cái hồng nhan"  >< " nước non" → cảm giác cô đơn trống vắng
    • Thủ pháp đảo: từ "trơ" đứng đầu câu + nhịp điệu thơ 1/3/3 → nhấn mạnh sự tủi hổ, bẽ bàng.
    • Từ “trơ” – trong văn cảnh câu thơ – không chỉ là bẽ bàng, tủi hổ mà còn thể hiện sự kiên cường, bền bỉ, thách thức. Nó đồng nghĩa với từ “trơ” trong câu thơ sau của Bà Huyện Thanh Quan:“Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt” (Thăng Long thành hoài cổ) → bản lĩnh, cá tính Xuân Hương.
  • Từ "hồng nhan" đặt bên cạnh từ "cái" → sự rẻ rúng, mỉa mai.

⇒ Câu thơ thể hiện nỗi đau đớn, xót xa, cay đắng của nhà thơ trước tình cảnh của chính mình

b. Hai câu thực

"Chén rượu hương đưa say lại tỉnh

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn."

  • Cụm từ "say lại tỉnh": gợi lên vòng tình duyên quẩn quanh, tình duyên đã trở thành trò đùa của con tạo, càng say càng tỉnh, càng cảm nhận nỗi đau thân phận
  • "Vầng trăng"
    • "bóng xế": trăng đang tàn 
    • "khuyết chưa tròn": chưa trọn vẹn

→ Tuổi xuân đã trôi qua mà tình duyên không trọn vẹn

⇒ Xót xa, cay đắng cho duyên phận dang dở, lỡ làng

c. Hai câu luận

" Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,

Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn."

  • Nghệ thuật: đảo ngữ, động từ mạnh, đối → xiên ngang: rêu; đâm toạc: đá ⇒ Bức tranh thiên nhiên sinh động, giàu sức sống
  • Hình ảnh thơ: Rêu xiên ngang mặt đất, đá đâm toạc chân mây → không chỉ diễn tả sự phẫn uất mà đó còn là sự phản kháng trước số phận hẩm hiu, tình duyên dang dở

⇒ Ý thức về hạnh phúc, tình duyên

d. Hai câu kết

" Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại

Mảnh tình san sẻ tí con con!"

  • “Ngán” là chán ngán, ngán ngẩm → mệt mỏi, chán chường trước duyên phận éo le, bạc bẽo.
  • Từ “xuân” mang hai nghĩ: vừa là “mùa xuân” vừa là “tuổi xuân”. Mùa xuân của thiên nhiên thì tuần hoàn, vĩnh cửu còn tuổi xuân của đời người thì qua đi không bao giờ trở lại.
  • Hai từ “lại” trong cụm từ “xuân đi xuân lại lại” mang hai nghĩa khác nhau:
    • Từ “lại” thứ nhất mang ý nghĩa thêm lần nữa
    • Từ “lại” thứ hai có nghĩa là trở lại.

→ Sự trở lại của mùa xuân lại đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi xuân. Tác giả cảm nhận sự chảy trôi của thời gian, đời người với bao xót xa, tiếc nuối.

  • Thủ pháp nghệ thuật tăng tiến Mảnh tình – san sẻ – tí – con con → nhấn mạnh vào sự nhỏ bé dần, làm cho nghịch cảnh càng éo le hơn. Mảnh tình đã bé lại còn “san sẻ” thành ra ít ỏi chỉ còn “tí con con” nên càng xót xa tội nghiệp.

→ Câu thơ là cảnh ngộ và là tâm trạng bi kịch của nữ sĩ: càng khát khao hạnh phúc càng thất vọng, mơ ước càng lớn thực tại càng mỏng manh ⇒ nỗi ngao ngán về số phận và thực tại phũ phàng, tình duyên lận đận

        Trong xã hội phong kiến xưa, số phận người phụ nữ luôn là tấm gương oan khổ của những éo le, bất công. Sống trong xã hội với quan điểm “trọng nam khinh nữ”, có những người trầm lặng cam chịu, nhưng cũng có những người ý thức sâu sắc được bi kịch bản thân, cất lên tiếng nói phản kháng mạnh mẽ. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương là một trong những người phụ nữ làm được điều đó. Bài thơ “Tự tình II” nằm trong chùm thơ bao gồm ba bài là tác phẩm thể hiện rõ điều này. Bốn câu thơ đầu trong bài thơ đã làm nổi bật hoàn cảnh cũng như tâm trạng vừa buồn tủi, vừa phẫn uất muốn vượt lên trên số phận của nữ sĩ:

           “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan với nước non

  Chén rượu hương đưa say lại tỉnh

          Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”.

   Tâm trạng của tác giả đã được gợi lên trong đêm khuya, và cảm thức về thời gian đã được tô đậm, nhấn mạnh để làm nền cho cảm thức tâm trạng:

         Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,

Trơ cái hồng nhan với nước non.

   Thời gian lúc nửa đêm nên không gian thật vắng lặng, tịch mịch, chỉ nghe tiếng trống cầm canh từ xa vẳng lại, vạn vật đã chìm sâu trong giấc ngủ, chỉ có nhà thơ còn trăn trở thao thức với tâm sự riêng tây.

   Đã nghe văng vẳng thì không thể có tiếng trống thúc dồn dập được. Âm thanh tiếng trống trở thành âm vang của cõi lòng nôn nao, bồn chồn. (Mỏ thảm không khua mà cũng cốc/ Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om). Bao sức sống dồn nén trong chữ dồn ấy như chực trào ra.

   Lẻ loi trước thời gian đêm khuya và bẽ bàng trước không gian non nước nên cái hồng nhan trơ ra. Cách dùng từ sáng tạo và đầy bất ngờ: hồng nhan là một vẻ đẹp thanh quý mà dùng từ cái tầm thường để gọi thì thật là rẻ rúng, đầy mỉa mai chua xót. Trơ là một nội động từ chỉ trạng thái bất động, hàm nghĩa đơn độc, chai sạn trước nắng gió cuộc đời. Biện pháp đảo ngữ trơ cái hồng nhan đã nhấn mạnh nỗi đơn độc, trơ trọi, bẽ bàng của thân phận. Câu thơ chứa đựng nỗi dau của kiếp hồng nhan. Đặt cái hồng nhan trong mối tương quan với nước non quả là táo bạo, thách thức, cho thấy tính cách mạnh mẽ của nữ thi sĩ, khao khát bứt phá khỏi cái lồng chật hẹp của cuộc đời người phụ nữ phong kiến.

2. Hai câu thực nói rõ hơn tàm trạng của nhà thơ:

Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,

      Vầng trăng bóng xê khuyết chưa tròn.

   Hai câu thơ có hai hình ảnh ẩn dụ. Hương rượu như hương tình, lúc lên men dậy sóng nhưng cũng chóng nhạt phai nên cuộc đời chao đảo, ngả nghiêng. Thật là trớ trêu cho con tạo. Cái ngọt ngào nồng nàn chỉ thoảng qua còn lại là dư vị chua chát, đắng cay. Say rồi lại tỉnh gợi cái vòng luẩn quẩn, dở dang. Còn vầng trăng khuya càng thêm chơ vơ, lạnh lẽo. Trăng đã xế như tuổi đã luống mà chưa bao giờ có được hạnh phúc trọn vẹn. Hai hình ảnh gợi hai lần đau xót. Vầng trăng của Thuý Kiều (Truyện Kiều - Nguyễn Du) là vầng trăng vỡ, còn của Xuân Hương mãi mãi là vầng trăng khuyết.

   Như vậy, thông qua cách sử dụng ngôn ngữ giàu giá trị biểu đạt kết hợp với những biện pháp tu từ như đảo ngữ, cùng những sáng tạo trong việc xây dựng hình tượng, bốn câu thơ đầu của bài thơ “Tự tình II” đã làm nổi bật cảm thức về thời gian, cho thấy tâm trạng buồn tủi cũng như ý thức sâu sắc về bi kịch duyên phận đầy éo le, ngang trái của nữ sĩ Hồ Xuân Hương.Chính những yếu tố trên đã giúp bà trở thành “Bà Chúa thơ Nôm”, đồng thời cũng là nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ với tiếng nói cảm thương và tiếng nói tự ý thức đầy bản lĩnh.

 Loigiaihay.com

I. Tiểu dẫn

- Hồ Xuân Hương quê ở Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An, sáng tác của bà gồm cả chữ Nôm và chữ Hán. Bà từng được mệnh danh là “Bà Chúa thơ Nôm”.

- Tự tình (bài II) nằm trong chùm thơ Tự tình gồm ba bài.

II. Văn bản (SGK)

1. Hoàn cảnh và tâm trạng của tác giả

 “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan với nước non”.

- Câu thơ đầu của bài thơ gợi buồn bã từ sự tĩnh lặng của đêm khuya. Tiếng trống không gần (văng vẳng) mà vẫn nghe thấy cái nhịp vội vàng, gấp gáp, vì tiếng trống gợi bước đi của thời gian, được cảm nhận bằng tâm trạng. Trong cái nhịp gấp gáp, liên hồi của tiếng trống canh là bước đi dồn dập của thời gian và sự rối bời trong tâm trạng của nhân vật trữ tình.

- Câu thơ thứ hai gợi cảm nhận về sự bẽ bàng của thân phận:

“Trơ cái hồng nhan với nước non”.

Phép đảo ngữ khoét sâu thêm vào cái sự bẽ bàng của tâm trạng. "Trơ" là tủi hổ, là chai lì, không còn cảm giác. Thêm vào đó, hồng nhan (chỉ dung nhan người thiếu nữ) lại đi với từ "cái" thật là rẻ rúng, mỉa mai. Cái "hồng nhan" trơ với nước non đúng là không chỉ gợi sự dãi dầu mà còn là cay đắng. Nhịp câu thơ 1/3/3 chì chiết, càng khơi sâu vào sự bẽ bàng khôn tả.

Tuy nhiên câu thơ không chỉ có nỗi đau, mà còn thể hiện cả bản lĩnh của nhân vật trữ tình. Bản lĩnh ấy thể hiện ở trong từ "trơ" kết hợp với "nước non" thể hiện sự bền gan, sự thách đố.

- Hai câu thực nói rõ hơn thực cảnh và thực tình của Hồ Xuân Hương:

“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,

Vầng trâng bóng xế khuyết chưa tròn”.

Thời gian không ngừng trôi và nhân vật trữ tình cô đơn đối diện với đêm khuya và với vầng trăng lạnh. Cảnh tình Xuân Hương thể hiện qua hình tượng chứa đựng hai lần bi kịch: Trăng sắp tàn (bóng xế) mà vẫn "khuyết chưa tròn", tuổi xuân đã trôi qua mà nhân duyên không trọn vẹn. Hương rượu càng gợi thêm sự cô đơn và bẽ bàng, cụm từ "say lại tỉnh" gợi lên cái vòng luẩn quẩn, tình duyên trở thành một trò đùa của tạo hóa.

2. Hình tượng thiên nhiên trong câu 5 và 6

- Hình tượng thiên nhiên trong hai câu luận cũng mang cả nỗi niềm phẫn uất của con người:

“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,

Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”.

- Những sinh vật bé nhỏ, hèn mọn nhưng không chịu yếu mềm. Rêu phải mọc "xiên ngang mặt đất", đá phải nhọn hoắt để "đâm toạc chân mây". Biện pháp nghệ thuật đảo ngữ làm nổi bật sự phẫn uất của đá, của rêu và cũng là sự phẫn uất của tâm trạng con người. Cùng với biện pháp đảo ngữ là sự kết hợp giữa những động từ mạnh (xiên, đâm) với các bổ ngữ (ngang, toạc) thể hiện sự bướng bỉnh và ngang ngạnh.

- Câu thơ căng đầy sức sống, đá, rêu như đang phản kháng quyết liệt với tạo hóa. Có thể nói, trong hoàn cảnh bi thảm nhất, thơ Hồ Xuân Hương vẫn ẩn chứa mạnh mẽ sức sống, khát khao.

3. Hai câu kết

- Hai câu kết là tâm trạng chán chường, buồn tủi:

“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,

Mảnh tình san sẻ tí con con!”.

- Xuân Hương ngán nỗi đời éo le, bạc bẽo bởi xuân đi rồi xuân lại, tạo hóa đang chơi một vòng quay nhàm chán như chuyện duyên tình của con người.

- Từ xuân vừa chỉ mùa xuân, vừa chỉ tuổi xuân. Với thiên nhiên, xuân đi rồi xuân lại nhưng với con người thì tuổi xuân đã qua không bao giờ trở lại. Hai từ "lại" trong cụm từ "xuân đi xuân lại lại" cũng mang hai nghĩa khác nhau. Từ "lại" thứ nhất là thêm một lần nữa, từ "lại" thứ hai nghĩa là trở lại. Mùa xuân trở lại nhưng tuổi xuân lại qua đi, đó là cái gốc sâu xa của sự ngán ngẩm.

- Trong câu thơ cuối, nghệ thuật tăng tiến làm cho nghịch cảnh của nhân vật trữ tình càng éo le hơn. Mảnh tình - vốn đã ít, đã bé, đã không trọn vẹn lại còn phải "san sẻ" thành ra gần như chẳng còn gì nên càng xót xa, tội nghiệp. Câu thơ nói lên nỗi lòng của người phụ nữ trong xã hội xưa, khi cảnh chồng chung vợ chạ đối với họ không phải là xa lạ.

4. Bài thơ vừa nói lên bi kịch vừa cho thấy khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc

- Bi kịch trong bài thơ là bi kịch của tuổi xuân, của duyên phận. Xuân đi rồi xuân đến, thời gian cứ tuần hoàn mà tuổi xuân của con người cứ mãi qua đi không trở lại. Trong hoàn cảnh ấy, sự nhỡ nhàng, sự dở dang của duyên tình càng làm tăng thêm sự xót xa.

- Rơi vào hoàn cảnh ấy, nhiều người sẽ tuyệt vọng, phó mặc, buông xuôi. Thế nhưng, trước sự trớ trêu của số phận, người phụ nữ luôn khát khao hạnh phúc vẫn gồng mình lên, vẫn muốn cưỡng lại sự nghiệt ngã. Sự phản kháng và khát khao ấy ở Hồ Xuân Hương làm nên ý nghĩa nhân văn sâu sắc cho tác phẩm.


Page 2

Chỉ ra cách ngắt nhịp và những biện pháp nghệ thuật ở câu 2 bài Tự tình

SureLRN

Chỉ ra cách ngắt nhịp và những biện pháp nghệ thuật ở câu 2 bài Tự tình