Cách điều trị u gan lành tính

Khối u gan lành tương đối phổ biến. Hầu hết đều không có triệu chứng, nhưng một số có thể gây gan to, khó chịu ở góc phần tư trên phải của bụng, hoặc xuất huyết trong ổ bụng. Hầu hết các khối được phát hiện ngẫu nhiên trên siêu âm hoặc các xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh ở Chẩn đoán hình ảnh gan và túi mật). Xét nghiệm chức năng gan thường bình thường hoặc chỉ hơi bất thường. Thường có thể chẩn đoán bằng các xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh nhưng cũng có lúc cần phải làm sinh thiết. Cần điều trị chỉ trong một số trường hợp cụ thể.

U tuyến tế bào gan

U tuyến tế bào gan là khối u lành tính quan trọng nhất có thể phát hiện được. Khối u xuất hiện chủ yếu ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ, đặc biệt là ở những người dùng thuốc tránh thai đường uống, cơ chế có thể do tác dụng của  estrogen(1).

Hầu hết các u tuyến đều không có triệu chứng, nhưng những khối u lớn có thể gây ra khó chịu ở bụng trên bên phải. Hiếm khi u tuyến có các biểu hiện như viêm phúc mạc và sốc do vỡ và xuất huyết trong ổ bụng. Hiếm khi khối u trở nên ác tính.

Thường nghĩ đến chẩn đoán dựa trên kết quả siêu âm hoặc CT, nhưng đôi khi cũng cần làm sinh thiết để xác định chẩn đoán.

U tuyến do sử dụng thuốc tránh thai có thể thoái triển dần nếu ngừng sử dụng thuốc tránh thai. Nếu u tuyến không thoái triển hoặc nằm dưới bao hoặc u > 5 cm thì thường được khuyến cáo phẫu thuật cắt bỏ.

Phì đại thể nốt khu trú

U mô thừa khu trú này có thể có đặc điểm mô học giống xơ gan nốt lớn. Chẩn đoán thường dựa vào MRI hoặc CT cản quang, nhưng có thể phải làm sinh thiết để xác định chẩn đoán. Điều trị ít khi cần thiết.

U máu

U máu thường nhỏ và không có triệu chứng; u xuất hiện ở 1 đến 5% người lớn. Triệu chứng có khả năng biểu hiện nhiều hơn nếu u > 4 cm; các triệu chứng bao gồm khó chịu, đầy bụng, và ít gặp hơn là chán ăn, buồn nôn, no nhanh, và đau thứ phát do chảy máu hoặc huyết khối. Những khối u này thường có đặc điểm mạch máu đặc trưng. U máu cũng có thể được phát hiện tình cờ khi siêu âm, CT, hoặc MRI. CT thường cho thấy hình ảnh khối giảm tỉ trọng ranh giới rõ; khi tiêm thuốc cản quang, lúc đầu có hình ảnh ngấm thuốc ở ngoại vi sau đó tiến dần về phía trung tâm. Điều trị thường không được chỉ định. Phẫu thuật cắt bỏ có thể được cân nhắc nếu các triệu chứng làm phiền bệnh nhân hoặc kích thước khối u tăng nhanh.

Ở trẻ sơ sinh, u mạch máu thường thoái triển khi trẻ được 2 tuổi. Tuy nhiên, các u mạch máu lớn đôi khi hình thành shunt động tĩnh mạch đủ để gây suy tim và đôi lúc là bệnh đông máu tiêu thụ (consumtion coagulopathy). Trong những trường hợp này, điều trị có thể bao gồm corticosteroid liều cao, đôi khi phối hợp với thuốc lợi tiểu và digoxin để cải thiện chức năng tim, interferon alfa (tiêm dưới da), phẫu thuật cắt bỏ, gây tắc động mạch gan chọn lọc, và hiếm khi là ghép gan.

Các khối u lành tính khác

U mỡ (thường không có triệu chứng) và các khối u xơ khu trú hiếm khi xuất hiện ở gan.

U tuyến ống mật lành tính cũng hiếm gặp, không gây ảnh hưởng đến bệnh nhân, và thường được phát hiện tình cờ. Đôi khi khối u bị nhầm lẫn với ung thư di căn.

Tài liệu tham khảo

Marrero JA, Ahn J, Rajender Reddy K; American College of Gastroenterology. ACG clinical guideline: the diagnosis and management of focal liver lesions. Am J Gastroenterol 109(9):1328-1347, 2014. doi: 10.1038 / ajg.2014.213.