Binh chủng tên lửa nguyễn đắc thắng phạm văn bời năm 2024

Năm 1950, Chính phủ Quốc gia Việt Nam thành lập Quân đội Quốc gia Việt Nam. Đã được Quân đội Liên hiệp Pháp hỗ trợ để thành lập một đơn vị Thám thính xa. Khi hiệp định Genève được ký kết chia đôi đất nước vào ngày 20 tháng 7 năm 1954. Binh chủng Thiết giáp gồm 1 Liên đoàn Thủy xa và 4 Trung đoàn Biệt lập. Năm 1955, nền Đệ Nhất Cộng hòa hình thành thì Bộ chỉ huy Thiết giáp mới được chính thức thành lập.

Bộ chỉ huy Thiết Giáp được thành lập vào ngày 1 tháng 4 năm 1955 do Trung tá Dương Ngọc Lắm làm Chỉ huy trưởng đầu tiên.

Những chiến xa đầu tiên của binh chủng đều thuộc loại M-24 Chaffees hạng nhẹ và loại M-8 cháy bánh (Đều do Quân đội Pháp để lại). Đến năm 1956, Thiết Giáp Kỵ Binh được tổ chức tiêu chuẩn hơn gồm những Trung đoàn Kỵ binh, mỗi Trung đoàn có 2 Chi đoàn được trang bị xe tăng M-3, M-8, và M-24.

Thời gian từ năm 1957-1962, Thiết kỵ chỉ giữ một vai trò khiêm nhường trên chiến trường miền Nam, vì địa hình nhiều rừng rậm và sông rạch lầy lội không thích hợp với di chuyển của Chiến xa. Tuy nhiên với nhu cầu của chiến trường, những Thiết vận xa M-113 (còn gọi là xe tăng lội nước) được đem ra áp dụng và rất hữu hiệu với các mặt trận ở đồng bằng và các cuộc hành quân ở vùng 4 chiến thuật. Sau đó các Thiết vận xa M-113 được trang bị thêm lá chắn và hỏa lực mạnh hơn để trở thành loại Thiết xa đa dụng của Binh chủng Thiết giáp (cần phân biệt chiến xa hay xe tăng có nhiệm vụ chính là dùng hỏa lực tiêu diệt địch quân, còn thiết vận xa có mục đích nguyên thủy là dùng để chở quân đổ bộ vào mục tiêu).

Năm 1964, mẫu xe tăng M-24 cũ kỹ được thay thế bằng mẫu xe tăng M-41A3 (Walker Bulldog) tối tân hơn với hỏa lực chính là đại bác 76mm và đại liên 50 cal(Đạn cỡ 12,7mm, sau thay bằng đại liên M-60 nhẹ và tác xạ nhanh hơn) (Loại này tuy bị coi là nhỏ bé chật chội đối với người tây phương cồng kềnh, nhưng đối với người Việt Nam nhỏ tác thì lại rất vừa vặn và hữu hiệu). Có 5 Chi đoàn xe tăng M-41 chẳng bao lâu đã trở thành xương sống của Binh chủng Thiết giáp Kỵ binh. Cũng trong năm này, Bộ chỉ huy Thiết kỵ được lệnh giải tán vào giữa tháng 11. Sau đó 5 tháng vào ngày 15 tháng 4 năm 1965 được tái lập và đặt Bộ chỉ huy tại trại Phù Đổng, Hạnh Thông Tây, Gò Vấp, Gia Định.

Trong thập niên 1960, lực lượng Thiết giáp Việt Nam Cộng hòa có ưu thế khá lớn vì quân Giải phóng miền Nam thời kỳ này chưa có xe tăng, xe thiết giáp. Đến đầu thập niên 1970, quân Giải phóng bắt đầu sử dụng các loại xe tăng T-54 và PT-76 (năm 1968, PT-76 xuất hiện tại Làng Vây và Khe Sanh) để yểm trợ cho bộ binh. Binh chủng Thiết giáp Kỵ binh Việt Nam Cộng hòa được Hoa Kỳ canh tân qua chương trình Việt Nam hoá chiến tranh và được trang bị loại chiến xa tối tân hạng trung M48 Patton (trang bị hoả lực đại bác 90mm và có gắn máy ngắm hồng ngoại Xenon) để tương ứng đối đầu với xe tăng T-54 được trang bị đại bác 100mm của đối phương. Trong những cuộc hành quân lớn và quy mô như Vượt biên qua Campuchia năm 1970, Hạ Lào năm 1971 và trận chiến Mùa hè đỏ lửa năm 1972, lực lượng xe tăng và xe thiết giáp của Binh chủng Kỵ binh Việt Nam Cộng hòa đã bị thiệt hại đáng kể.

Tính đến năm 1975, lực lượng Thiết giáp Việt Nam Cộng hòa gồm có Bộ Chỉ Huy tại Trung ương và 4 Bộ Tư lệnh Lữ đoàn tại 4 Quân khu, trong đó gồm có: 3 Thiết đoàn Chiến xa M-48, 18 Thiết đoàn Kỵ binh M-113 và trong đó có 13 Chi đoàn Chiến xa M-41 được phối trí đều và thích ứng theo địa hình cho 4 vùng chiến thuật: Vùng 1, 2 và 4, mỗi vùng 5 Thiết đoàn, Vùng 3 có 6 Thiết đoàn. Ngoài ra phối trí cho các Tiểu khu, mỗi Tiểu khu có 1 Chi đội thám thính xa Cadillac Gage Commando Vehicle V-100 (di chuyển bằng bánh hơi, rất cơ động và nhanh lẹ). Một Chi đoàn gồm đủ các loại: xe tăng M-48, xe tăng M-41, xe thiết giáp M-113 và V-100 để cho khóa sinh tập huấn tại Trường huấn luyện Thiết giáp. Số còn lại thuộc dụng Bộ Chỉ huy Thiết giáp Trung ương. Tổng số là 21 Thiết đoàn, trang bị lên tới trên 2.000 xe tăng - xe thiết giáp các loại.

Sau năm 1975, Quân đội nhân dân Việt Nam đã thu giữ được hàng trăm xe tăng, xe thiết giáp của VNCH. Số xe này tiếp tục được sử dụng sau đó.

Bảng phối trí các Lữ đoàn[sửa | sửa mã nguồn]

Stt Đơn vị Chủng loại Trực thuộc Họ và tên chỉ huy Cấp bậc Chú thích Lữ đoàn 1 Quân khu 1 Nguyễn Xuân Hường Võ bị Địa phương Trung Việt (Huế) K1 Đại tá Phối thuộc Quân đoàn I 1 Thiết đoàn 20 Chiến xa M.48 Lữ đoàn 1 Phan Công Tuấn Trung tá Cơ hữu Lữ đoàn 2 Thiết đoàn 17 Thiết vận xa M.113 Chiến xa M.41 Nguyễn Viết Thạnh 3 Thiết đoàn 4 Trần Văn Minh Thiếu tá Phối thuộc SĐ 2 Bộ binh 4 Thiết đoàn 7 Hồ Đàn Trung tá Phối thuộc SĐ 1 Bộ binh 5 Thiết đoàn 11 Nguyễn Hữu Lý Phối thuộc SĐ 3 Bộ binh Lữ đoàn 2 Quân khu 2 Nguyễn Văn Đồng Võ bị Đà Lạt Đại tá Phối thuộc Quân đoàn II 6 Thiết đoàn 21 Chiến xa M.48 Lữ đoàn 2 Nguyễn Cung Vinh Võ bị Đà Lạt K18

Nguyễn Chinh Phu

Trung tá

Thiếu Tá

Cơ hữu Lữ đoàn 7 Thiết đoàn 3 Thiết vận xa M.113 Chiến xa M.41 Nguyễn Văn Triết Thiếu tá 8 Thiết đoàn 19 Hoàng Kiều 9 Thiết đoàn 8 Nguyễn Văn Đêm Phối thuộc SĐ 23 Bộ binh 10 Thiết đoàn 14 Lương Chí Võ bị Đà Lạt K10 Kiêm Lữ đoàn phó Đại tá Phối thuộc SĐ 22 Bộ binh Lữ đoàn 3 Quân khu 3 Trần Quang Khôi Võ bị Đà Lạt K6 Chuẩn tướng Phối thuộc Quân đoàn III 11 Thiết đoàn 22 Chiến xa M.48 Lữ đoàn 3 Nguyễn Văn Liên Trung tá Cơ hữu Lữ đoàn 12 Thiết đoàn 15 Thiết vận xa M.113 Chiến xa M.41 Đỗ Đức Thảo 13 Thiết đoàn 18 Nguyễn Đức Dương Võ khoa Thủ Đức K5p (Khóa 11B Trừ bị Đà Lạt) 14 Thiết đoàn 1 Nguyễn Minh Tánh Võ khoa Thủ Đức K5 Phối thuộc SĐ 5 Bộ binh 15 Thiết đoàn 10 Huỳnh Kiêm Mậu Phối thuộc SĐ 25 Bộ binh 16 Thiết đoàn 5 Trần Văn Nô Phối thuộc SĐ 18 Bộ binh Lữ đoàn 4 Quân khu 4 Trần Ngọc Trúc Võ khoa Thủ Đức K2 Đại tá Phối thuộc Quân đoàn IV 17 Thiết đoàn 12 Thiết vận xa M.113 Lữ đoàn 4 Phạm Hữu Tường Trung tá Cơ hữu Lữ đoàn 18 Thiết đoàn 16 Lê Văn Thành 19 Thiết đoàn 2 Nguyễn Văn Việt Tân Phối thuộc SĐ 9 Bộ binh 20 Thiết đoàn 6 Ngô Đức Lâm Thiếu tá Phối thuộc SĐ 7 Bộ binh 21 Thiết đoàn 9 Trần Hữu Thành Võ khoa Thủ Đức K10 Trung tá Phối thuộc SĐ 21 Bộ binh

Bộ Chỉ huy Binh chủng Thiết giáp tháng 4/1975[sửa | sửa mã nguồn]

  • Chức danh Chỉ huy và Tham mưu sau cùng Stt Họ và Tên Cấp bậc Chức vụ Chú thích 1 Nguyễn Văn Toàn Võ bị Đà Lạt K5 Trung tướng Chỉ huy trưởng Kiêm Tư lệnh Quân đoàn III 2 Thẩm Nghĩa Bôi Võ bị Đà Lạt K5 Đại tá Chỉ huy phó 3 Lương Bùi Tùng Võ khoa Nam Định Phụ tá Chỉ huy trưởng 4 Nguyễn Đức Dung Võ khoa Thủ Đức K5 Tham mưu trưởng 5 Huỳnh Văn Tám Chỉ huy trưởng Trường Thiết giáp

Tư lệnh các Lữ đoàn Kỵ binh từ khi thành lập[sửa | sửa mã nguồn]

Đơn vị Stt Họ và Tên Cấp bậc Tại nhiệm Chú thích Lữ đoàn 1 1 Phan Hòa Hiệp Võ bị Địa phương Trung Việt Huế K1 Chuẩn tướng 1971 Sau cùng là Chuẩn tướng Tổng trưởng Thông tin 2 Nguyễn Trọng Luật Võ khoa Thủ Đức K1 Đại tá 1971-1972 Sau cùng là Đại tá Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Darlac 3 Trần Tín 1972 4 Vũ Quốc gia Võ khoa Thủ Đức 1972-1974 Sau cùng là Đại tá Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Phú Yên 5 Nguyễn Xuân Hường 1974-1975 Tư lệnh cuối cùng Lữ đoàn 2 1 Nguyễn Đức Dung Võ bị Đà Lạt K5 1971-1973 Năm 1973-1974, giữ chức vụ Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Pleiku. Năm 1974-1975, Tham mưu trưởng Bộ Chỉ huy Thiết giáp Trung ương 2 Nguyễn Văn Đồng 1973-1975 Tư lệnh cuối cùng Lữ đoàn 3 1 Trần Quang Khôi 1970-1971 Tư lệnh lần thứ nhất 2 Nguyễn Kim Định Võ khoa Thủ Đức K5 1971-1973 3 Trần Quang Khôi 1973-1975 Tư lệnh lần thứ hai. Thăng cấp Chuẩn tướng năm 1974 Lữ đoàn 4 1 Vũ Quốc gia 1969-1972 2 Nguyễn Văn Của Võ khoa Thủ Đức K3 1972-1974 Sau cùng là Đại tá Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Bình Dương 3 Trần Ngọc Trúc 1974-1975 Tư lệnh cuối cùng

Chỉ huy trưởng Trường Thiết giáp qua các thời kỳ[sửa | sửa mã nguồn]

Stt Họ và Tên Cấp bậc Tại nhiệm Chú thích 1 Hoàng Đôn Thận Võ bị Đà Lạt k5 Thiếu tá 1955-1956 Giải ngủ ở cấp Thiếu tá 2 Trần Văn Ái 1956 Giải ngũ ở cấp Trung tá 3 Nguyễn Duy Hinh Võ khoa Nam Định Đại úy 1956-1957 Sau cụng là Thỉếu tướng 4 Lương Bùi Tùng 1957-1959 Sau cùng là Đại tá 5 Vĩnh Lộc Võ bị Lục quân Pháp Thiếu tá 1959-1961 Sau cùng là Trung tướng 6 Dương Văn Đô Võ khoa Nam Định Đại úy 1961-1963 Sau cùng là Đại tá 7 Nguyễn Văn Toàn Thiếu tá 1963-1964 Sau cùng là Trung tướng 8 Lâm Quang Thơ Võ bị Đà Lạt K3 Trung tá 1964-1965 Sau cùng là Thiếu tướng 9 Nguyễn Tuấn Võ khoa Thủ Đức K1 1965-1968 Toàn gia đình Trung tá Nguyễn Tuấn bị VC sát hại ở Tết Mậu thân (trừ một người con trai), Trung tá Nguyễn Tuấn được truy thăng cấp Đại tá. Người con trai còn sống là Nguyễn Từ Huấn sau 1975 theo chú ruột là Đại tá Nguyễn Tú di tản sang Hoa Kỳ định cư, đến tuổi thành niên ông Nguyễn Từ Huấn gia nhập Quân chủng Hải quân Hoa Kỳ, năm 2019 được vinh thăng Phó Đề đốc (chuẩn tướng) Hải quân Hoa Kỳ. 10 Nguyễn Quang Nguyên Võ khoa Nam Định 1968-1969 Sau cùng là Trung tá 11 Trần Tín 1969-1972 Sau cùng là Đại tá 12 Trần Văn Tỷ Võ bị Đà Lạt K10 Đại tá 1972-1973 13 Huỳnh Văn Tám 1973-1975

Chỉ huy trưởng Binh chủng Thiết giáp qua các thời kỳ[sửa | sửa mã nguồn]

Stt Họ và Tên Cấp bậc Tại chức Chú thích 1 Dương Ngọc Lắm Võ bị Liên quân Viễn Đông Đà Lạt Trung tá 03/1955-05/1957 Sau cùng là Thiếu tướng Đô trưởng Sài Gòn-Chợ Lớn. Giải ngũ năm 1964 2 Hoàng Xuân Lãm Võ bị Đà Lạt K3 05/1957-06/1959 Sau cùng là Trung tướng Phụ tá Tổng trưởng Quốc phòng 3 Nguyễn Văn Thiện Võ khoa Thủ Đức K2 Thiếu tá 06/1959-12/1963 Sau cùng giữ chức vụ Tư lệnh Biệt khu Quảng-Đà (Quảng Nam và Đà Nẵng). Tử nạn mất tích trên phi cơ A.37 sau khi thăng cấp Chuẩn tướng được 2 ngày 4 Vĩnh Lộc Đại tá 12/1963-02/1964 Sau cùng là Trung tướng Tổng tham mưu trưởng 1 ngày (28/4/1975) 5 Nguyễn Đình Bảng Võ bị Đà Lạt K5 Trung tá 02/1964-11/1964 Xử lý thường vụ đến ngày Bộ Tư lệnh Thiết giáp tạm giải tán 5 tháng. Sau cùng là Đại tá Thị trưởng Cam Ranh (Trước nhiệm kỳ của Đại tá Trần Công Liễu) 6 Lâm Quang Thơ 04/1965-09/1965 Khi Bộ Tư lệnh Thiết giáp tái thành lập. Sau cùng là Thiếu tướng CHT Trường Võ bị Đà lạt 7 Lương Bùi Tùng 09/1965-02/1969 Sau cùng là Đại tá. 8 Dương Văn Đô Võ khoa Nam Định 02/1969-09/1969 Chỉ huy trưởng lần 1 9 Phan Hòa Hiệp Đại tá 09/1969-02/1972 Sau cùng là Chuẩn tướng Trưởng ban Quân sự 2 bên 10 Nguyễn Văn Toàn Thiếu tướng 02/1972-05/1972 Chỉ huy Trưởng lần 1 11 Dương Văn Đô Đại tá 05/72-10/1972 Chỉ huy Trưởng Lần 2. 12 Lý Tòng Bá Võ bị Đà Lạt K6 Chuẩn tướng 10/1972-11/1974 13 Nguyễn Văn Toàn Trung tướng 11/1974-04/1975 Chỉ huy Trưởng lần 2 14 Nguyễn Chinh Phu Thiếu Tá 03/1975-04/1975 Chĩ huy Thiết đoàn 21

Tướng lãnh Xuất thân từ Binh chủng Thiết giáp[sửa | sửa mã nguồn]

Stt Họ và Tên Cấp bậc Chức vụ sau cùng Chú thích 1 Hoàng Xuân Lãm Trung tướng Phụ tá Tổng trưởng Quốc phòng 2 Vĩnh Lộc Tổng Tham mưu trưởng 3 Nguyễn Văn Toàn Tư lệnh Quân đoàn III Kiêm Chỉ huy trưởng Thiết giáp 4 Nguyễn Duy Hinh Thiếu tướng Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ binh 5 Dương Ngọc Lắm Phụ tá Đặc biệt Phủ Thủ tướng 6 Lâm Quang Thơ Chỉ huy trưởng trường Võ bị Quốc gia 7 Lý Tòng Bá Chuẩn tướng Tư lệnh Sư đoàn 25 Bộ binh 8 Phan Hòa Hiệp Tổng trưởng Thông tin Chiêu hồi 9 Trần Quang Khôi Tư lệnh Lữ đoàn 3 Kỵ binh 10 Nguyễn Văn Thiện Tư lệnh Biệt khu Quảng-Đà 11 Lê Đức Đạt Tư lệnh Sư đoàn 22 Bộ binh Nguyên Đại tá Tư lệnh Sư đoàn 22 Bộ binh. Mùa hè năm 1972 hy sinh tại mặt trận Dakto (Tân Cảnh), Kontum. Được truy thăng Chuẩn tướng. 12 Trương Hữu Đức Võ bị Đà Lạt K10 Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn Đặc nhiệm Nguyên Đại tá Thiết đoàn trưởng Thiết đoàn 5 kiêm Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn Đặc nhiệm 52. Mùa hè năm 1972 tử trận tại mặt trận Chơn Thành, Bình Long. Được truy thăng Chuẩn tướng.

Chỉ huy nổi tiếng[sửa | sửa mã nguồn]

  • Nguyễn Trọng Luật
  • Phan Hòa Hiệp
  • Trần Quang Khôi

Trận đánh nổi tiếng[sửa | sửa mã nguồn]

  • Trận Mậu Thân
  • Chiến dịch Campuchia
  • Chiến dịch Lam Sơn 719
  • Mùa hè đỏ lửa

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Lục quân Việt Nam Cộng hòa
  • Binh chủng Pháo binh Việt Nam Cộng hòa

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  • Đại tá Nguyễn Xuân Hường, sinh năm 1929 tại Quảng Nam.
  • Xuất thân từ Trường Sĩ quan Trung tá Nguyễn Cung Vinh tử trận khi cùng đơn vị triệt thoái trên đường 7B (tại địa phận quận Sơn Hòa, Phú Yên) vào ngày 21 tháng 3 năm 1975, Thiếu tá Nguyễn Chinh Phu (Thiết đoàn phó) thay thế chỉ huy Thiết đoàn

Chủ đề