Ảnh mô học các lớp của thượng bì. Lớp sừng (stratum corneum) dày hơn ảnh trên là do đây là hai mẫu lấy từ hai vị trí khác nhau Show
Chi tiếtMột phần củaDaCơ quanHệ vỏ bọcĐịnh danhLatinhEpidermisMeSHD004817TAA16.0.00.009THH3.12.00.1.01001FMA70596Thuật ngữ mô học [Chỉnh sửa cơ sở dữ liệu Wikidata] Thượng bì là lớp ngoài cùng trong ba lớp tạo nên da, các lớp bên trong bao gồm hạ bì và trung bì. Lớp thượng bì là một hàng rào ngăn nhiễm trùng do các mầm bệnh từ môi trường và điều hòa lượng nước khỏi cơ thể vào trong không khí qua thoát hơi nước qua thượng bì. Thượng bì bao gồm nhiều lớp tế bào dẹt nằm trên một lớp tế bào đáy gồm tế bào hình trụ. Các hàng tế bào phát triển từ tế bào gốc trong lớp đáy. Cơ chế tế bào điều hòa nước và natri (ENaCs) được tìm thấy trong tất cả các lớp thượng bì. Thượng bì của con người là một ví dụ đặc trưng của biểu mô, đặc biệt là một biểu mô lát tầng sừng hóa. Lớp[sửa | sửa mã nguồn]Thượng bì bao gồm 4 hoặc 5 lớp, tùy thuộc vào khu vực da. Những lớp thứ tự từ ngoài vào trong là:
Lớp Malpighi có mặt ở cả lớp đáy và lớp gai. Thượng bì ngăn cách với hạ bì bởi màng đáy. Chức năng[sửa | sửa mã nguồn]Hàng rào bảo vệ[sửa | sửa mã nguồn]Thượng bì có chức năng như một hàng rào để bảo vệ cơ thể chống lại vi khuẩn, stess oxy hóa (tia cực tím), và hóa chất, và cản trở cơ học các chấn thương nhỏ. Hầu hết vai trò bảo vệ của hàng rào này là nhờ lớp sừng. Giữ ẩm[sửa | sửa mã nguồn]Khả năng giữ nước của da là chủ yếu do lớp sừng và rất quan trọng cho việc duy trì làn da khỏe mạnh. Chất béo sắp xếp theo một bậc thang và tổ chức giữa các tế bào của lớp sừng tạo thành một hàng rào mất nước qua da. Màu da[sửa | sửa mã nguồn]Số lượng và phân phối của tế bào hắc tố trong thượng bì là nguyên nhân cho đa dạng về màu da trong Homo sapiens.... Được tìm thấy trong melanosome, hạt hình thành trong tế bào hắc tố từ đó chúng được chuyển đến các tế bào sừng xung quanh. Kích thước, số lượng và sắp xếp những melanosome khác nhau giữa các chủng tộc, tuy nhiên dù số lượng tế bào hắc tố có thể thay đổi khác nhau giữa vùng cơ thể, số lượng của chúng giống nhau ở tất cả các vùng trên tất cả mọi người. Số lượng melanosome trong sừngs làm tăng sự tiếp xúc với tia cực tím, còn phân bố của chúng hầu như không ảnh hưởng. [ Thầy Đặng Thành Nam ] Đề thi khảo sát chất lượng thi tốt nghiệp THPT QG 2022 THPT Chuyên Võ Nguyên Giáp - Quảng Bình
Related documents
Preview textBIỂU MÔMục tiêu học tập:
Biểu mô là loại mô được tạo thành bởi những tế bào hình đa diện nằm sát và gắn kết chặt chẽ với nhau, rất ít chất gian bào. Biểu mô làm nhiệm vụ che phủ bề mặt cơ thể, lót các khoang cơ thể hoặc đảm nhiệm chức phận chế tiết.
Biểu mô có nguồn gốc từ cả 3 lá phôi:
Biểu mô có những nhóm chức năng chính sau:
Dưới kính hiển vi quang học không quan sát được khoảng gian bào giữa các tế bào biểu mô. Dưới kính hiển vi điện tử, khoảng gian bào chỉ từ 15 đến 20nm. Ở một số biểu mô, có nơi khoảng gian bào giãn rộng trở thành tiểu quản gian bào, lưu chuyển các chất giữa tế bào các lớp của biểu mô.
Các tế bào biểu mô khác nhau phụ thuộc vào loại biểu mô, vào chức năng biểu mô và vào vị trí của các tế bào trong biểu mô. Khi ranh giới của tế bào không nhìn rõ thì hình dáng của nhân tế bào có thể cung cấp khái niệm về hình dáng của tế bào (những tế bào khối vuông hay đa diện thường có nhân hình cầu; những tế bào dẹt thường có nhân hình thoi, dài, dẹt; những tế bào hình trụ thường có nhân hình trứng đứng thẳng).
Ở đa số các tế bào biểu mô, bào tương phía trên nhân hoàn toàn khác với phần dưới nhân. Vì vậy người ta quy ước gọi cực đáy là phần bào tương trông về phía màng đáy, còn phần bào tương ở phía trên là cực ngọn. Sự phân cực đó có liên quan với các chức năng của tế bào.
1 2 3 4 Thành phần hoá học của lá đáy chủ yếu gồm collagen typ IV, laminin và heparan sulfate. Những tơ neo có thành phần cấu tạo là collagen typ VII. Lá đáy là sản phẩm của các tế bào biểu mô. Tế bào cơ, tế bào mỡ và tế bào Schwann cũng tạo ra lá đáy bao quanh các tế bào này. Lá sợi võng là sản phẩm của các tế bào mô liên kết. Màng đáy đóng vai trò phân cách biểu mô với mô liên kết, làm giới hạn cho sự phát triển của biểu mô, đồng thời làm hàng rào ngăn không để những chất có phân tử lượng lớn ở dịch gian bào vào biểu mô. Biểu mô và màng đáy thường nằm trên một lớp mô liên kết-mạch, được gọi là lớp đệm (lamina propria). Lớp đệm dưới biểu mô thường có những nhú làm tăng diện tích kết dính và trao đổi chất giữa biểu mô và mô liên kết.
2.6. Những cái mộng (Hình 1-2) Ở mặt bên của những tế bào biểu mô nằm cạnh nhau màng tế bào này lồi ra khớp với chỗ lõm của màng bào tương tế bào bên cạnh. Đó là cấu trúc mộng, giúp tế bào liên kết với nhau. 2.6. Dải bịt (Zonula occludens) (Hình 1-2; 1-3) Hình 1-2. S ơ đồồ siêu cấấu trúc têấ bào bi u mồ ru tể ộ non [5]. 1. Vi nhung mao; 2. D i b t; 3. Vòng dính; 4.ả ịTh ể liên kêết; 5. Liên kêết khe; 6. M ng.ộ5 6 Ở mặt bên ngay sát mặt tự do của tế bào biểu mô có dải bịt. Ở đây lớp ngoài cùng của màng bào tương hai tế bào cạnh nhau hoà nhập lại một khoảng dài từ 0,1- 0,3m, trong khoảng này có nơi còn thấy khoảng gian bào hẹp. Dải bịt lấp kín phần ngọn khoảng gian bào quanh các tế bào biểu mô, không cho các chất vào khoảng gian bào phía dưới. Hình 1-3. S ơ đồồ các hình th ức liên kêết m t bên têế bào bi u mồ ru t [4]. ặ ể ộA. Hình vi th ; B, C. Hình siêu vi th ; D. Sể ể ơđồồ cắết ngang; 1. Mâm khía; 2.Màng đáy; 3. Vi nhung mao; 4. D i b t; 5. Vòng dính; 6. Thả ị ểliên kêết.4 5 6 6 5 4 1 3 2 A B C D Tại liên kết khe, có những đơn vị kết nối (connexon units) hình ống chạy xuyên qua khoảng gian bào hẹp (2nm) hai đầu mở vào bào tương mỗi tế bào. Mỗi đơn vị kết nối gồm 6 dưới đơn vị quây quanh một lòng rỗng đường kính khoảng 2nm, cho phép các ion và vật chất có phân tử lượng dưới 1000 đi qua. Tâm của những đơn vị kết nối gần nhau cách nhau khoảng 9nm. Liên kết khe là cấu trúc liên kết và truyền thông tin ở mặt bên của một số loại tế bào biểu mô. Tuy nhiên, ở một vài mô trong cơ thể người như mô cơ, mô thần kinh... cũng có cấu trúc truyền thông tin này. Sự truyền thông tin giữa hai tế bào tại liên kết khe theo cơ chế hoạt động của synap điện (xung động thần kinh qua synap điện không đòi hỏi chất trung gian hóa học mà nhờ vào sự chuyển dịch của dòng ion, gây thay đổi điện thế màng).
2.7. Mặt tự do tế bào biểu mô 2.7.1. Vi nhung mao (Hình 1-2; 1-3; 1-5; 1-8) Dưới kính hiển vi điện tử, vi nhung mao được mô tả như do bào tương đẩy màng bào tương lồi lên mặt tự do làm tăng diện tích bề mặt tế bào. Trong bào tương của vi nhung mao có những xơ actin và những enzyme cần cho sự trao đổi chất. 7 Hình 1-5. Ảnh siêu cấu trúc vi nhung mao tế bào biểu mô ruột [5]. 1. Vi nhung mao; 2. Glycocalyx; 3. Màng bào tương;4. Xơ1 3 4 Vi nhung mao rất phát triển ở những tế bào biểu mô trao đổi chất mạnh. Thí dụ ở niêm mạc ruột non, mỗi tế bào biểu mô trụ có tới 3000 vi nhung mao hướng vào lòng ruột; mỗi nhung mao cao khoảng 1m, đường kính khoảng 0,1m; ở phía đáy vi nhung mao, màng bào tương lõm xuống hình thành các khe, ống nhỏ. Dưới kính hiển vi quang học, tập hợp các vi nhung mao của tế bào biểu mô ruột tạo thành hình ảnh một đĩa sẫm màu có khía dọc, được gọi là mâm khía; còn ở bề mặt các tế bào biểu mô ống gần ở thận gồm nhiều vi nhung mao cao tạo hình ảnh vi thể được gọi là diềm bản chải. 2.7.1. Lông Ở mặt tự do của các tế bào biểu mô lợp một số cơ quan, có thể có những lông chuyển hoặc những lông bất động.
8 Hình 1-7. S ơ đồồ m t cắất ngang lồngặ chuy n (trên) và hể ướng lay đ ng c a ộ ủ lồng chuy n (dể ưới) [4].
1 2 3 Hình 1-6. Ảnh siêu cấấu trúc lồng chuy n ể ởtêấ bào bi u mồ để ường hồ hấấp [5]. Hình l n: m t cắết d c lồng chuy n;ớ ặ ọ ể Hình nh :ỏ m t cắết ngang lồng chuy n; 1. Màng bào tặ ể ương; 2. ỐỐng siêu vi; 3. Th ểđáy. hay phức tạp, chia thành nhiều nhánh. Ở những tế bào tái hấp thu ion Na mạnh (thí dụ tế bào ống xa ở thận), những mê đạo đáy khá phát triển. Xen vào giữa những mê đạo đáy, các ngăn bào tương có chiều rộng khoảng 50- 180nm và chứa nhiều ti thể. Nhờ có những mê đạo đáy, toàn bộ diện tích của màng bào tương ở mặt đáy tăng lên rất nhiều. Vì thế, quá trình trao đổi chất ở đây thuận lợi và tăng lên. Sự có mặt nhiều ti thể trong ngăn bào tương và sự tiếp xúc mật thiết của ti thể với với mê đạo đáy tạo điều kiện cung cấp năng lượng cho sự vận chuyển các chất qua màng ở phần đáy tế bào. 10 Hình 1-8. Sơ đồ siêu cấu trúc tế bào biểu mô ống gần ở thận [10]. A. Cực ngọn; B. Cực đáy; 1. Vi nhung mao; 2. Ti thể; 3. Màng đáy; 4. Mê đạo đáy. 1 2 3 4 A B Hình 1-9. Sơ đồ siêu cấu trúc thể liên kết (A); thể bán liên kết (B) [4]. 1. Tấm bào tương; 2. Xơ trương lực; 3. Màng đáy; 4. Mô liên kết; 5.AB 1 2 5 2 1 3 4 2.7.2. Thể bán liên kết (Hình 1-9) Trong cực đáy của tế bào biểu mô hướng về phía màng đáy có những cấu trúc giống như một nửa thể liên kết. Cấu trúc này được gọi là thể bán liên kết, có tác dụng làm cho các tế bào biểu mô liên kết chặt chẽ với mô liên kết phía dưới (hay chung quanh) qua các xơ trung gian trong tế bào.
Căn cứ vào một số chuẩn, biểu mô được phân loại như sau:
Biểu mô phủ là những biểu phủ mặt ngoài của cơ thể, mặt trong các cơ quan rỗng, những khoang thiên nhiên của cơ thể. 3.1. Biểu mô đơn Biểu mô đơn là những biểu mô được tạo thành bởi một hàng tế bào. 3.1.1. Biểu mô lát đơn (Hình 1-10a) Biểu mô lát đơn được tạo thành bởi một hàng tế bào đa diện dẹt. Các tế bào có đường ranh giới ngoằn ngoèo, được thể hiện bằng phương pháp ngấm bạc. Vùng trung tâm mỗi tế bào thường có một nhân hơi lồi vào lòng khoang mà biểu mô đó lợp. Loại biểu mô này thường gặp ở mặt trong thành tai trong màng, mặt trong của màng nhĩ, lá ngoài của bao Bowman, đoạn lên của ống trung gian (trong thận). Màng bụng, màng phổi, màng tim cũng được lợp bởi biểu mô lát đơn nhưng có nguồn gốc từ trung mô nên được gọi là trung biểu mô. Mặt trong thành các mạch máu, mạch bạch huyết cũng được lợp bởi biểu mô lát đơn có nguồn gốc trung mô được gọi là nội mô. Mặt của biểu mô lát đơn bao giờ cũng hơi ướt, nhẵn, bóng, cho phép các tạng chuyển động dễ dàng, không bị cọ xát mạnh vào nhau và vào thành cơ thể. Vì thế biểu mô lát đơn còn được gọi là biểu mô trượt. 3.1.1. Biểu mô vuông đơn (Hình 1-10b) Quan sát lát cắt song song với bề mặt biểu mô, các tế bào biểu mô thể hiện là những hình đa giác. Nếu quan sát theo mặt phẳng vuông góc với bề mặt biểu mô, biểu mô gồm một hàng tế bào hình khối vuông, nhân hình tròn, nằm giữa tế bào. Có thể gặp biểu mô vuông đơn ở một số nơi: biểu mô lợp mặt tự do của buồng trứng, mặt trong của bao nhân mắt, hoặc ở các ống bài xuất của một số tuyến ngoại tiết (ống Boll của tuyến nước bọt). Biểu mô sắc tố của võng mạc cũng thuộc loại biểu mô vuông đơn. Biểu mô chế tiết của một số nang tuyến cũng được xếp vào loại biểu mô vuông đơn, dù rằng những tế bào tạo thành những nang đó thường là hình tháp hơn là hình khối vuông. 3.1.1. Biểu mô trụ đơn (Hình 1-10c) Biểu mô trụ đơn gồm một hàng tế bào hình trụ. Chiều cao của tế bào lớn hơn chiều ngang. Nhân tế bào có hình trứng, nằm phía cực đáy. Khi quan sát lát cắt song song với bề mặt biểu mô, người ta thấy tế bào cũng có hình đa diện giống như biểu mô vuông đơn nhưng chu vi của những tế bào trụ nhỏ hơn nhiều. Biểu mô trụ đơn lợp mặt trong của ống tiêu hoá suốt từ tâm vị đến đoạn trên của trực tràng và gặp cả ở đường bài xuất của một số tuyến. Biểu mô trụ đơn có thể được hình thành từ một loại tế bào giống nhau (thí dụ: biểu mô của niêm mạc dạ dày, biểu mô ống cổ tử cung). Nhưng cũng có biểu mô trụ đơn được tạo nên bởi nhiều loại tế bào trụ khác nhau (thí dụ biểu mô ruột được tạo thành bởi 3 loại tế bào trụ: tế bào mâm khía, tế bào hình đài, tế bào ưa chrom ưa bạc). Có thể gặp biểu mô trụ đơn có lông chuyển ở vòi trứng, những phế quản; biểu mô trụ đơn có lông bất động ở ống mào tinh, biểu mô ống nội tuỷ. 3.1. Biểu mô tầng Biểu mô tầng là loại biểu mô được tạo thành bởi hai hoặc nhiều lớp tế bào chồng lên nhau. Dựa vào hình dáng tế bào nằm trên cùng để phân loại, người ta có thể chia biểu mô tầng làm 3 loại và 2 loại đặc biệt: 3.1.2. Biểu mô lát tầng Loại biểu mô này được tạo thành bởi nhiều lớp tế bào, nhưng những tế bào trên cùng là những tế bào dẹt. Loại biểu mô này được chia làm hai loại:
3.1.2. Biểu mô vuông tầng Biểu vuông tầng được tạo bởi hai hàng tế bào trở lên mà hàng nằm trên cùng là những tế bào hình khối vuông. Thí dụ: ở biểu mô võng mạc thể mi, hàng tế bào vuông ở lớp trong có khả năng tiết ra thuỷ dịch, hàng tế bào vuông ở lớp ngoài có chứa nhiều hạt sắc tố đen (xem chương 16). 3.1.2. Biểu mô trụ tầng (Hình 1-10e) Biểu mô trụ tầng gồm nhiều hàng tế bào chồng chất lên nhau và hàng tế bào nằm trên cùng có hình trụ. Trong cơ thể, ít có biểu mô thuộc loại này. Thí dụ biểu mô màng tiếp hợp mi mắt, biểu mô của đoạn niệu đạo tiền liệt, biểu mô của một số ống bài xuất lớn của một số tuyến. 3.1.2. Biểu mô trụ giả tầng (Hình 1-10d) Ở biểu mô trụ giả tầng, các tế bào chồng chất lên nhau, hàng tế bào trên cùng có hình trụ, nhưng cực đáy của tất cả các tế bào đều sát với màng đáy. Hình dáng của các tế bào trong biểu mô khác nhau: một số tế bào có mặt đáy rộng, hẹp dần lên phía trên và không lên đến mặt biểu mô. Một số khác rất cao, kéo dài suốt chiều dày của biểu mô và mặt ngọn tế bào rộng hơn mặt đáy. Nhân của các tế bào thường nằm ở phần rộng nhất của tế bào do đó nhân các tế bào thường nằm chênh nhau thành 2-3 hàng. Vì vậy biểu mô có dáng như loại biểu mô tầng nên nó được mang tên là giả tầng. Thí dụ: biểu mô lợp những ống bài xuất lớn của tuyến nước bọt mang tai và một số tuyến khác, biểu mô lợp niệu đạo nam (trừ đoạn niệu đạo tiền liệt). Biểu mô trụ giả tầng có lông chuyển lợp phần lớn đường dẫn không khí của bộ máy hô hấp, vòi Eustache, một phần hòm nhĩ, túi lệ. 3.1.2. Biểu mô chuyển tiếp (Hình 1-10i-k) Biểu mô này được tạo thành bởi nhiều hàng tế bào. Nghiên cứu thiết đồ cắt thẳng góc với mặt biểu mô, người ta thấy hình dáng tế bào thay đổi từ dưới lên trên tới mặt tự do của biểu mô. Lớp tế bào sát màng đáy có hình khối vuông hay hình trụ gọi là lớp đáy. Trên lớp đáy có nhiều hàng tế bào đa diện. Hàng tế bào trên cùng gồm những tế bào đa diện lớn. Biểu mô chuyển tiếp là loại biểu mô của niêm mạc bàng quang, trong đó các tế bào có khả năng biến đổi hình dáng rõ ràng, tuỳ thuộc vào tình trạng căng giãn của bàng quang. Khi bàng quang căng, tế bào các lớp trên của biểu mô dẹt lại. Người ta coi biểu
3.2. Phân loại tuyến 3.2.3. Căn cứ để phân loại: Theo số lượng tế bào tạo ra sản phẩm, có:
Hình 1-11. Tuyến đơn bào (tế bào hình đài tiết nhầy ở biểu mô niêm mạc ruột) [10]. A. Vi thể; B. Siêu vi thể; 1. Vi nhung mao; 2. Hạt nhầy; 3. Lưới nội bào; 4. Nhân tế bào. A B 1 2 3 4 3.2.3. Tuyến ngoại tiết (Hình 1-12) Mỗi tuyến ngoại tiết đa bào gồm hai phần: phần chế tiết gồm các tế bào tạo ra sản phẩm chế tiết; phần bài xuất là những ống dẫn sản phẩm chế tiết đi ra khỏi tuyến. Theo đặc điểm cấu tạo hình thái của phần chế tiết, có thể chia tuyến ngoại tiết thành ba loại: tuyến ống, tuyến túi, túi ống-túi.
Hình 1-12. Sơ đồ các loại tuyến ngoại tiết [5].
ab1 2 3 456 7Trong một số hệ cơ quan, tế bào biểu mô đã biến đổi thành các dạng: (1) tế bào cơ- biểu mô (myoepithelial cells), (2) tế bào thần kinh-nội tiết (neuroendocrine cells) và (3) tế bào nội tiết ở ruột (enteroendocrine cells).
Biểu mô luôn được đổi mới nhờ gián phân tế bào. Tỉ lệ đổi mới của mỗi biểu mô khác nhau. Ở biểu bì da, các tế bào trên mặt biểu mô hoá sừng. Lớp tế bào hoá sừng này ở mức độ nào đó đã bảo vệ cho những tế bào lớp sâu của biểu mô. Chúng được thay thế dần bằng sự phân chia của các tế bào của những lớp đáy biểu mô. Càng lên phía trên các tế bào dần hoá sừng. Ở ruột non, những tế bào bị huỷ hoại và những tế bào ở giai đoạn cuối của đời sống liên tục bong ra ở phần ngọn của các nhung mao ruột. Chúng được thay thế bởi sự phân chia của các tế bào tuyến Lieberkuhn. Ở ruột non, tỉ lệ tế bào mất đi và tế bào mới sinh do gián phân rất cao nên biểu mô phủ các nhung mao được thay thế hoàn toàn chỉ trong vài ngày. Ở biểu mô đường hô hấp, các tế bào có đời sống dài, sự thoái hoá của tế bào tương đối ít vì vậy tỉ lệ đổi mới ở đây chậm. Trong quá trình lành vết thương da, các tế bào biểu mô ở mép vết thương tăng cường gián phân, cung cấp các tế bào mới sinh tiến vào che phủ dần vết thương. Mới đầu là một hai hàng tế bào, về sau biểu mô được phục hồi với chiều dày bình thường. |