Bệnh bạch cầu cấp dòng tủy m5 là gì năm 2024

Bệnh bạch cầu là một tình trạng ác tính liên quan đến việc sản xuất quá nhiều bạch cầu chưa trưởng thành hoặc bất thường, cuối cùng sẽ ngăn chặn việc sản sinh ra các tế bào máu bình thường và gây ra các triệu chứng liên quan đến thiểu sản tế bào máu.

Sự biến đổi ác tính thường xảy ra ở tế bào gốc vạn năng, mặc dù đôi khi nó liên quan đến tế bào gốc biệt hóa với khả năng tự tái tạo hạn chế. Tăng sinh bất thường, nhân dòng vô tính, biệt hóa không bình thường và giảm quá trình apoptosis (chết tế bào theo chương trình) dẫn đến việc thay thế các yếu tố máu bình thường bằng các tế bào ác tính.

ước tính rằng tại Hoa Kỳ vào năm 2023 sẽ có khoảng 60.000 ca mắc bệnh bạch cầu mới (tất cả các thể) ở người lớn và trẻ em và khoảng 24.000 ca tử vong.

Cách tiếp cận hiện tại để phân loại bệnh bạch cầu dựa trên hệ thống của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) năm 2016 (Phân loại ung thư bạch huyết). Phân loại của WHO dựa trên sự kết hợp giữa các đặc điểm lâm sàng và hình thái, kiểu hình miễn dịch và các yếu tố di truyền. Các hệ thống phân loại ít được sử dụng khác bao gồm hệ thống Pháp-Mỹ-Anh (FAB), dựa trên hình thái của các bạch cầu bất thường.

Bệnh bạch cầu thường được phân loại thành loại như

  • Cấp tính hoặc mạn tính: Dựa trên tỷ lệ phần trăm của các tế bào non hoặc bạch cầu trong tủy xương hoặc máu
  • Dòng tủy hoặc lympho: Dựa trên dòng tế bào ác tính

Bốn bệnh bạch cầu phổ biến nhất và các đặc điểm phân biệt của chúng được tóm tắt trong bảng .

  • Các bệnh bạch cầu khác: 8%

Bệnh bạch cầu cấp dòng tủy m5 là gì năm 2024

Bệnh bạch cầu kinh có nhiều tế bào trưởng thành hơn là bệnh bạch cầu cấp. Chúng thường biểu hiện như tăng bạch cầu có hoặc không có tế bào máu ở một người không có triệu chứng. Dấu hiệu và xử trí có sự khác biệt đáng kể giữa

Phản ứng bạch cầu là số lượng bạch cầu trung tính > 50.000/mcL (> 50 × 109/L) không phải do sự biến đổi ác tính của tế bào gốc tạo máu. Nó có thể là kết quả của nhiều nguyên nhân, đặc biệt là các bệnh ung thư khác hoặc nhiễm trùng hệ thống. Thông thường, nguyên nhân rõ ràng, nhưng sự tăng bạch cầu trung tính cũng có thể giống như Bệnh bạch cầu kinh bạch cầu trung tính hoặc CML.

Nguy cơ mắc bệnh bạch cầu tăng lên ở bệnh nhân có

  • Tiền sử tiếp xúc với bức xạ ion hoá (ví dụ, bom nguyên tử ở Nagasaki và Hiroshima) hoặc với các hóa chất (ví dụ benzene)
  • Điều trị trước đó với một số loại thuốc chống ung thư, bao gồm các chất alkyl hóa, các chất ức chế topoisomerase II, hydroxyurea và duy trì lenalidomide sau ghép tế bào gốc tự thân với các thuốc điều trị đa u tủy xương; có thể dẫn đến một loại bệnh bạch cầu cấp dòng tủy được gọi là t-AML hoặc AML liên quan đến điều trị
  • Nhiễm vi rút (ví dụ: vi rút lymphotropic T 1 hoặc 2 ở người, vi rút Epstein Barr) hiếm khi có thể gây ra một số dạng ALL; điều này chủ yếu được thấy ở những khu vực thường xảy ra tình trạng nhiễm bệnh như vậy, chẳng hạn như Châu Á và Châu Phi

Tài nguyên bằng tiếng Anh sau đây có thể hữu ích. Vui lòng lưu ý rằng CẨM NANG không chịu trách nhiệm về nội dung của tài liệu này.

Bệnh bạch cầu cấp dòng tủy m5 là gì năm 2024

Bản quyền © 2024 Merck & Co., Inc., Rahway, NJ, USA và các chi nhánh của công ty. Bảo lưu mọi quyền.

Leukemia/Lơxêmi cấp dòng tủy (AML) là một dạng ung thư mà ở đó các tế bào non dòng tủy biệt hóa bất thường, đôi khi biệt hóa kém, nhân rộng vô tính và thâm nhập tủy xương, máu, hay mô khác. Sự sinh sôi thừa thãi của các tế bào tủy chưa trưởng thành phá hỏng quá trình tạo máu bình thường, dẫn đến chảy máu, thiếu máu, và nhiễm trùng nặng. AML là loại leukemia cấp phổ biến nhất ở người lớn, đặc biệt là người già 65 tuổi trở lên. Căn bệnh nhìn chung có tiên lượng xấu và độ tuổi là một yếu tố ảnh hưởng quan trọng. Tỷ lệ sống 5 năm ở trẻ em là 60%, người dưới 45 tuổi là <50% và người trên 60 tuổi là <10%.

Trong đa số trường hợp, AML tự phát sinh ở người khỏe mạnh mà không có nguyên nhân rõ ràng. Yếu tố nguy cơ phổ biến nhất được biết là từng tiếp xúc với hóa trị hay xạ trị, nhất là các chất alkyl hóa và chất ức chế topoisomerase II, dẫn đến AML liên quan trị liệu (t–AML) chiếm khoảng 10–20% tổng số ca AML. Các yếu tố môi trường như hóa chất và bức xạ ion hóa, hay lối sống như hút thuốc lá và béo phì cũng khiến rủi ro mắc bệnh gia tăng. Ở một số ít bệnh nhân, sự hình thành AML có liên quan đến những hội chứng thừa hưởng, gọi là AML gia đình. Người bị hội chứng Down có rủi ro mắc AML cao gấp 10 đến 20 lần, nhất là loại con leukemia nguyên bào nhân khổng lồ cấp tính (AMKL) và đóng vai trò là đột biến gen GATA1.

Khi các tế bào ung thư thâm nhập tủy xương, chúng gây nên những tình trạng khác mà bộc lộ triệu chứng. Cụ thể là dễ bầm tím và đốm máu do giảm tiểu cầu, nhiễm trùng thường xuyên do giảm bạch cầu trung tính, và xanh xao, mệt mỏi do thiếu máu. Một số biểu hiện lâm sàng của AML đòi hỏi cấp cứu, tiêu biểu là ứ đọng bạch cầu do tăng bạch cầu và bệnh đông máu thường liên hệ với leukemia tiền tủy bào cấp (APL). Những dị thường đông máu đặc biệt phổ biến và nghiêm trọng ở người mắc APL. Hiếm khi, AML gây ra sarcoma tủy với đặc điểm là một khối u gồm các nguyên bào tủy có thể ở mọi vị trí ngoài tủy, phổ biến là da, hạch bạch huyết, đường tiêu hóa, xương, mô mềm, tinh hoàn. Sarcoma tủy có thể là biểu hiện sớm đầu tiên và đôi khi là duy nhất của AML.

Chẩn đoán AML đòi hỏi xác định có 20% hoặc hơn nguyên bào tủy ở tủy xương hay máu ngoại vi qua đánh giá hình thái. AML là bệnh không đồng nhất về những khía cạnh sinh học hay lâm sàng và bệnh sinh của nó gắn với những sự chuyển đoạn nhiễm sắc thể lớn và đột biến gen. Bên cạnh tuổi tác như đã nêu thì kiểu dị thường phân tử hay nhiễm sắc thể cũng là chỉ báo tiên lượng quan trọng. Những biến đổi di truyền tế bào cấu thành yếu tố tiên lượng mạnh nhất và các ca bệnh có thể được xếp vào các nhóm dự báo thuận lợi, tầm trung, hay bất lợi chỉ dựa vào dữ liệu di truyền tế bào của họ; hỗ trợ thêm là những đột biến gen. Ví dụ như người có chuyển đoạn nhiễm sắc thể t(8;21), t(15;17) hay đảo đoạn inv(16) dễ có kết cục tốt; ngược lại kết cục xấu liên hệ với những kiểu nhân phức tạp, đơn thể, t(6;9), inv(3), hay đặc biệt là đột biến TP53.

Trong khâu điều trị, bước đầu cần làm là đánh giá xem bệnh nhân có phù hợp để áp dụng hóa trị tích cực hay không. Cytarabine cộng với anthracycline là liệu pháp bước đầu tiêu chuẩn cho người phù hợp trong vài chục năm. Khi bệnh tình đã thuyên giảm, cần có thêm biện pháp để ngăn chặn tái phát. Tình trạng tái phát rất phổ biến ở AML và là một thách thức lớn, đem đến tiên lượng xấu. Các chiến lược đối phó hậu thuyên giảm là hóa trị thông thường và cấy ghép tế bào tạo máu. Mặc dù vậy ở bệnh nhân tái phát, hóa trị củng cố thường kém hiệu quả còn cấy ghép tế bào tạo máu, dù là hy vọng chữa khỏi duy nhất, lại có nguy cơ tử vong cao và không nhiều người phù hợp để áp dụng. Với người không thích hợp cho hóa trị tích cực ban đầu, thường là người già có những bệnh đi kèm và thể trạng yếu, hướng điều trị là chăm sóc hỗ trợ tốt nhất kết hợp những liệu pháp kém tích cực hơn bao gồm cytarabine liều thấp và các chất giảm methyl hóa (azacitidine và decitabine); tuy nhiên nhìn chung kết cục là ảm đạm và thời gian sống trung vị chỉ tầm 5 đến 9 tháng.

Bệnh bạch cầu cấp dòng tủy sống được bao lâu?

- Bệnh bạch cầu dòng tủy mạn tính: người được chẩn đoán ở giai đoạn đầu có thể sống trung bình 98 tháng (khoảng 8 năm); Những người được chẩn đoán ở giai đoạn giữa, có thời gian sống trung bình là 65 tháng (5,5 năm); Ở giai đoạn cuối, thời gian sống chỉ còn 42 tháng (khoảng gần 4 năm).

Bệnh bạch cầu có những triệu chứng gì?

Một số dấu hiệu khác cảnh báo bệnh bạch cầu, bao gồm:.

Sốt và ớn lạnh..

Mệt mỏi kéo dài, cơ thể ốm yếu..

Nhiễm trùng thường xuyên hoặc nặng..

Giảm cân..

Hạch bạch huyết sưng, gan hoặc lách to..

Dễ bị chảy máu hoặc bầm tím..

Chảy máu cam tái phát nhiều lần..

Xuất hiện đốm đỏ nhỏ trên da..

Bệnh bạch cầu cấp dòng tủy tiếng anh là gì?

Bệnh bạch cầu cấp tính dòng tủy (có tên tiếng anh là acute myeloid leukemia - AML) là tình trạng rối loạn quá trình sản xuất bạch cầu, hồng cầu, và / hoặc tiểu cầu.

Bị ung thư máu ghép tủy sống được bao lâu?

Trong hội nghị khoa học Huyết học - Truyền máu tháng 11 năm 2022 vừa qua, thạc sĩ - bác sĩ Bạch Quốc Khánh cũng cho biết: Với phương pháp ghép tủy, có khoảng 50 - 60% người bệnh ung thư máu sau ghép tủy có thể kéo dài tuổi thọ trên 5 năm.