Afp l3 là gì

Bản quyền thuộc © Hội gan mật Việt Nam phát triển bởi HCVIET COMPANY.

Ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) là loại ung thư phổ biến thứ 6 trên toàn thế giới và chiếm hơn 90% ung thư gan nguyên phát. Ung thư biểu mô tế bào gan nếu được chẩn đoán ở giai đoạn sớm và điều trị đúng phương pháp sẽ có tiên lượng khả quan. Tỉ lệ sống 5 năm đối với bệnh nhân được điều trị là 50-70% tùy từng nghiên cứu. Chính vì vậy mà các biện pháp sàng lọc phát hiện sớm ung thư biểu mô tế bào gan hiện rất được chú trọng nghiên cứu và phát triển.


1. Các phương pháp sàng lọc sớm ung thư gan

* Siêu âm: dễ thực hiện, chi phí thấp, được sử dụng phổ biến, phần lớn các HCC phát triển từ xơ gan nên việc theo dõi siêu âm ở bệnh nhân mắc bệnh gan mạn tính tiến triển cần được thực hiện thường xuyên.

Xét nghiệm nồng độ AFP trong máu: AFP là một glycoprotein bình thường được sản xuất khi có thai trong túi noãn hoàng và trong gan của bào thai. Nếu thai phát triển bình thường, nồng độ AFP của mẹ sẽ tăng lên, và chỉ một lượng không đáng kể AFP vẫn còn lại trong dòng tuần hoàn sau sinh. Nồng độ AFP huyết thanh giảm nhanh sau khi sinh và khi trưởng thành chỉ còn < 9 ng/mL.

* AFP: được coi như một chất chỉ điểm u đối với một số loại ung thư (nhất là ung thư gan nguyên phát). Nồng độ AFP thường tăng cao ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan, tuy nhiên cũng có thể tăng trong viêm gan mạn tính hoặc xơ gan, ung thư dạ dày, ung thư phổi... độ nhạy chẩn đoán HCC của AFP đạt 39-45% và độ đặc hiệu là 76-94%.

* PIVKA-II: là dạng bất thường của des-carboxylated prothrombin (DCP) được tạo ra do sự thiếu hụt vitamin K hoặc ở bệnh nhân được điều trị bằng warfarin hay phenprocoumon. Des-carboxylated prothrombins bị khuyết chức năng do không thể gắn kết với canxi và phospholipid. Xác định nồng độ PIVKA-II giúp phát hiện tình trạng thiếu hụt Vitamin K trước khi kết quả xét nghiệm đông máu thường quy thay đổi hoặc xảy ra xuất huyết. PIVKA-II không xuất hiện ở người bình thường, nhưng ở người bị bệnh gan và gan ác tính, PIVKA-II có thể xuất hiện dù cơ thể không bị thiếu hụt vitamin K. Nồng độ PIVKA-II được xác định để hỗ trợ chẩn đoán và tiên lượng ở bệnh nhân bị HCC và theo dõi bệnh nhân HCC trong quá trình điều trị.

2. Ý nghĩa xét nghiệm PIVKA-II

- PIVKA-II (DCP - Des-γ-carboxy prothrombin): Xét nghiệm rất có giá trị trong hỗ trợ chẩn đoán, theo dõi đáp ứng điều trị, tái phát và tiên lượng ung thư biểu mô tế bào gan.

- Bình thường, tiền chất prothrombin phải trải qua sự carboxyl hóa phụ thuộc vitamin K của 10 gốc glutamic acid ở đầu tận N của chuỗi polypeptide để sản xuất ra phân tử prothrombin tự nhiên. Trong HCC, sự chuyển dạng này bị cản trở do enzyme carboxylase bị ức chế, dẫn đến sự tích lũy của DCP. Thời gian bán hủy của DCP trong huyết thanh là 4 ngày.

- Xét nghiệm prothrombin des-gamma-carboxy (DCP) được sử dụng cùng với các chất đánh dấu khối u khác như alpha-fetoprotein (AFP) và AFP-L3 để theo dõi hiệu quả điều trị ung thư biểu mô tế bào gan (HCC). Nó cũng có thể được sử dụng để theo dõi sự tái phát của HCC sau khi điều trị.

- Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp HCC đều sản xuất DCP. Đối với những bệnh nhân đã được chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gan, ở thời điểm ban đầu có nồng độ DCP được sử dụng để theo dõi diễn biến bệnh.

- Tại Nhật Bản, DCP đang được sử dụng, cùng với AFP và/hoặc AFP-L3 để định kỳ sàng lọc những người có nguy cơ cao trong quá trình tiến triển từ viêm gan mạn tính hoặc xơ gan đến ung thư biểu mô tế bào gan.

3. Chỉ định

Xét nghiệm PIVKA-II đặc hiệu để xác định ung thư biểu mô tế bào gan nên chỉ định rộng rãi.

       - Chỉ định cho đối tượng bệnh nhân nguy cơ: xơ gan, viêm gan B, C mạn tính; viêm gan nhiễm mỡ không do rượu (NAFLD), các bệnh lý gan mạn tính khác…

      - Xét nghiệm PIVKA-II được sử dụng cùng với các chất đánh dấu khối u khác như alpha-fetoprotein (AFP) và AFP-L3 để theo dõi hiệu quả điều trị và tái phát của HCC.

- Nồng độ PIVKA-II được xác định để hỗ trợ chẩn đoán và tiên lượng ở bệnh nhân bị HCC và theo dõi HCC trong quá trình điều trị.

Nếu bạn có bất cứ câu hỏi thắc mắc nào về kết quả xét nghiệm PIVKA-II hãy gọi điện thoại theo số: 024.3821.2644 - gặp TS. BS Nguyễn Thị Tuấn, phụ trách CNK Miễn dịch, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 (trong giờ hành chính).

TS.BS Nguyễn Thị Tuấn

Khoa Miễn dịch – Bệnh viện TWQĐ 108

Tên khác: AFP; Total AFP; AFP-L3%Tên chính: Alpha-fetoprotein, Total; Alpha-fetoprotein-L3 percent

Xét nghiệm liên quan: CEA; hCG; Tumor markers, DCP

Xét nghiệm AFP

Có thể bạn quan tâm:

  • Gói khám xét nghiệm bệnh gan toàn diện GenLiver

Xét nghiệm này đo lượng alpha-fetoprotein (AFP) trong máu. AFP là một protein được sản xuất chủ yếu ở gan của thai nhi và các phần khác của phôi thai phát triển, tương tự như khoang lòng đỏ trứng gia cầm (lòng đỏ túi mô). Nồng độ AFP thường được tăng lên đến khi em bé được sinh ra và sau đó giảm nhanh chóng. Ở trẻ em khỏe mạnh và người lớn không mang thai, AFP bình thường chỉ phát hiện ở mức rất thấp.
Tổn thương gan và loại ung thư nhất định có thể làm tăng đáng kể nồng độ AFP. AFP được sản xuất bất cứ khi nào các tế bào gan được tái sinh. Với các bệnh gan mãn tính, chẳng hạn như viêm gan và xơ gan, AFP có thể được nâng cao kinh niên. Nồng độ rất cao của AFP có thể được sản xuất bởi các khối u nhất định. Đặc tính này làm cho các xét nghiệm AFP hữu ích như là một điểm đánh dấu khối u. Số lượng tăng của AFP được tìm thấy ở nhiều người bị một loại ung thư gan được gọi là ung thư biểu mô tế bào gan. AFP cũng được tìm thấy ở một số người bị ung thư tinh hoàn và buồng trứng.AFP hiện diện trong máu dưới các dạng khác nhau gọi là các đồng dạng . Thông thường, khi một bác sĩ chỉ định một thử nghiệm AFP, là xét nghiệm AFP toàn phần, là tổng các đồng dạng của AFP. Đây là thử nghiệm AFP chính tại Hoa Kỳ và các nước khác.

Trong ung thư, một đồng dạng của Alpha-fetoprotein (AFP ) là AFP-L3, một trong ba xét nghiệm thường được sử dụng trong 3 tháng giữa của chu kỳ mang thai ( triple test ) và sàng lọc bệnh ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) với những bệnh nhân bị bệnh gan mãn tính . AFP có thể được phân tách thành 3 đồng dạng : L1, L2, L3 bởi phương pháp điện di, dựa sự liên kết với các lectin Lens culinaris agglutinin (LCA). AFP-L3 liên kết mạnh mẽ với LCA thông qua một lượng dư fucose ( C6H12O5),nó được gắn với N-Acetylglucosamine cuối bằng liên kết α ( 1 – 6 ) , điều này là trái ngược với đồng vị L1. L1 là động dạng thường được tăng liên kết trong viêm gan không HCC. Các đồng vị L3 tăng liên kết trong các khối u ác tính, phát hiện sự hiện diện của nó ,có thể hữu ích để xác định bệnh nhân cần tăng giám sát sự phát triển của HCC trong quần thể có nguy cơ cao ( bệnh viêm gan B & C và / hoặc xơ gan).

AFP-L3% là một thử nghiệm mới so sánh tỉ lệ % AFP-L3 và AFP toàn phần. Sự gia tăng trong tỷ lệ phần trăm của L3/ AFP có liên quan với tăng nguy cơ phát triển ung thư biểu mô tế bào gan trong tương lai gần và có tiên lượng kém hơn. Các xét nghiệm AFP-L3% không được sử dụng rộng rãi ở Mỹnhưng được sử dụng rộng rãi ở một số nước khác như Nhật Bản.

Xét nghiệm được sử dụng như thế nào?

AFP được sử dụng để giúp phát hiện và chẩn đoán ung thư gan, tinh hoàn và buồng trứng. Nó thường được chỉ định để theo dõi những người có bệnh gan mãn tính như xơ gan hoặc viêm gan B mãn tính bởi vì  có nguy cơ gia tăng phát triển ung thư gansuốt đời. Một bác sĩ có thể yêu cầu xét nghiệm AFP, cùng với chẩn đoán hình ảnh, để cố gắng phát hiện và điều trị ung thư gan sớm nhất.

Nếu một bệnh nhân đã được chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gan hoặc bệnh ung thư khác sản xuất AFP, thử nghiệm AFP có thể được xét nghiệm định kỳ để theo dõi hiệu quả của điều trị và theo dõi ung thư tái phát.

Một thử nghiệm tương đối mới là AFP-L3%, đôi khi cũng chỉ định so sánh tỷ lệ  của AFP –L3/AFPtổng . Các thử nghiệm AFP-L3% chưa được sử dụng rộng rãi ở Mỹ nhưng đã được chấp nhận rộng rãi ở các nước khác như Nhật Bản. Xét nghiệm được sử dụng để giúp đánh giá nguy cơ phát triển ung thưbiểu mô tế bào gan, đặc biệt là ở những người có bệnh gan mãn tính. Sự gia tăng tỷ lệ phần trăm của L3/tổng AFP cho biết có sự gia tăng nguy cơ phát triển nhanh chóng căn bệnh này và cũng có ít cơ hội sống sót.

Khi nào được chỉ định?

Bác sĩ có thể yêu cầu một xét nghiệm máu AFP khi:

 * Nghi ngờ bệnh nhân có ung thư gan hoặc ung thư tinh hoàn hoặc buồng trứng. Ung thư có thể nghi ngờ khi khám lâm sàng cảm nhận được khối ở vùng bụng hoặc kiểm tra chẩn đoán hình ảnh phát hiện có thể  khối u.


 *  Để theo dõi sự xuất hiện của ung thư biểu mô tế bào gan, một loại ung thư gan khác ở một bệnh nhân bị bệnh gan mãn tính.
 * Theo dõi hiệu quả điều trị  bệnh nhân đã được chẩn đoán và điều trị bệnh ung thư gan, tinh hoàn hoặc buồng trứng.
 
* Theo dõi tái phát ung thư.

Tỷ lệ % AFP-L3 đôi khi được chỉ định để giúp đánh giá nguy cơ ung thư biểu mô tế bào gan khi bệnh nhân có bệnh gan mãn tính. Tuy nhiên xét nghiệm mới này chưa được sử dụng rộng rãi và hữu ích lâm sàng của nó cuối cùng vẫn chưa được xác nhận.

Kết quả thử nghiệm có nghĩa là gì?


Tăng mức độ AFP có thể chỉ ra sự hiện diện của bệnh ung thư: ung thư gan phổ biến nhất, ung thư buồng trứng, u tế bào mầm tinh hoàn. Tuy nhiên, không phải tất cả ung thư gan, buồng trứng, hoặc tinh hoàn sẽ sản xuất số lượng AFP tăng đáng kể. Mức độ cao, đôi khi có thể được nhìn thấy trong bệnh ung thư khác như dạ dày, đại tràng, phổi, vú, và ung thư hạch, mặc dù nó hiếm khi được chỉ địnhđể đánh giá các trường hợp này. Các bệnh khác như xơ gan và viêm gan cũng có thể làm gia tăng nồng độ AFP.

Khi AFP được sử dụng như một công cụ giám sát, mức độ giảm về bình thường hoặc gần mức bình thường là bệnh nhân có đáp ứng điều trị. Nếu sau khi điều trị ung thư nồng độ AFP giảm không đáng kể, điều này cho biết một số tế bào khối u có thể vẫn còn có mặt. Nếu nồng độ bắt đầu tăng lại, có khả năng là ung thư tái phát hay di căn. Nếu nồng độ AFP không tăng lên trongsuốt thời gian điều trị, thử nghiệm AFP sẽ khôngcòn được chỉ định thường xuyên, nói chung AFP là hữu ích để theo dõi hiệu quả điều trị hoặc theo dõi tái phát.

Khi nồng độ AFP của những người có bệnh gan mãn tính tăng lên từ vừa phải đến rất cao, nguy cơ phát triển ung thư gan tăng lên. Khi tổng số AFP và AFP-L3% được nâng lên đáng kể, thì người bị bệnh có nguy cơ tăng hoặc phát triển ung thư biểu mô tế bào gan . Tuy nhiên, cả hai tổng AFP và% AFP-L3cũng có thể được nâng cao và biến động ở những người bị viêm gan mãn tính và xơ gan. Trong những trường hợp này,sự gia tăng mạnh của AFP là quan trọng hơn trị số thực  của kết quả xét nghiệm.

Điều gì khác nên biết?

Không phải mọi người có kết quả xét nghiệm tăng AFP và AFP-L3% đều bị ung thư hoặc sẽ phát triểnthành ung thư gan. Xét nghiệm AFP và AFP-L3% không chẩn đoán xác định ,  là những chỉ số tham khảo, gợi ý.  phải được sử dụng kết hợp với thông tin từ các cuộc kiểm tra thăm khám lâm sàng, tiềnsử và chẩn đoán hình ảnh, để tìm kiếm sự hiện diện của khối u. Mặc dù các xét nghiệm này có thể cung cấp thông tin hữu íchnhưng không cụ thể hoặc không nhạy như các bác sĩ mong muốn. AFP có thể tăng tạm thời bất cứ khi nào tế bào gan bị tổn thương và tái tạo, và độ cao vừa phải có thể được nhìn thấy với một loạt các bệnh lý. Vì vậy, thử nghiệm AFP có thể cung cấp một trị số dương tính giả. Ngoài ra, không phải tất cả bệnh ung thư sẽ sản xuất AFP, một người vẫn có thể có bệnh ung thư ngay cả khi AFP là bình thường.  những lý do này, xét nghiệm AFP không được sử dụng để sàng lọc bệnh ung thưrộng rãi trong cộng đồng.

AFP không phải luôn luôn là một điểm đánh dấu khối u. Bởi vì AFP được sản xuất bởi bào thai, mức độ thường cao hơn ở phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh .

Câu hỏi phổ biến 

1. Các yếu tố nguy cơ ung thư biểu mô tế bào gan là gì?

Ung thư này thường xảy ra  những người  sẹogan mạn tính , được gọi là xơ gan. Thông thường nhấtlà những người đã nhiễm trùng mãn tính từ một trong hai loại virus viêm gan B và viêm gan C. Nghiện rượu cũng làm tăng nguy cơ phát triển xơ gan. Một số bệnh di truyền, đặc biệt là bệnh rối loạnhấp thu sắt được gọi  hemochromatosis (trong đó cơ thể hấp thụ quá nhiều chất sắt), thời gian sau có thể gây raxơ gan và có thể tiến triển thành ung thưbiểu mô tế bào gan.

2. Nếu AFP của tôi là bình thường / bất thường, tôi cần các xét nghiệm khác?

Nếu bạn  nhiễm trùng gan mãn tính hoặc tổn hại gan mãn tính, AFP cao có thể là do các bệnh này sinh ra. Nếu AFP của bạn đột nhiên tăng lên, hoặc rất cao, bác sĩ của bạn thường sẽ yêu cầu bạn thực hiện thêm các chẩn đoán hình ảnh như siêu âm, CT scan hoặc MRI . Những quét này thường có thể pháthiện ung thư gan nếu  có mặt. Bác  của bạn cũng có thể yêu cầu xét nghiệm des-gamma carboxyprothrombin (DCP) trong máu để giúp phát hiện ung thư gan.

Nguồn: //labtestsonline.org/

Video liên quan

Chủ đề