5 hãng thu âm lớn hàng đầu năm 2022

5 hãng thu âm lớn hàng đầu năm 2022

Thập kỷ đầu tiên (1898-1909)

   Lịch sử của Deutsche Grammophon song hành với sự ra đời của ngành thu thanh. Tháng 6 năm 1898, hãng được sáng lập tại Hanover, cùng thời điểm với sự ra đời của đĩa than và máy ghi âm. Hai giám đốc điều hành của Deutsche Grammophon khi đó là Emile Berliner (sinh tại Hanover năm 1851, di cư sang Mỹ năm 1870) – nhà đồng phát minh ra đĩa than và đầu đọc – và em trai ông, Joseph. Cũng trong năm này, hai bạn làm ăn của Emile là William Barry Owen và Fref Gaisberg đã thành lập Gramophone Company ở London. Ngay từ năm 1900, khi Deutsche Grammophon Gesellschaft chuyển trụ sở tới Berlin, đĩa than của Berliner đã làm lu mờ hình ảnh máy hát với ống quay hình trụ của Edison và được tôn làm chuẩn mực của ngành công nghiệp. Cùng thời điểm đó, Gaisberg phụ trách việc quảng bá tên tuổi của hãng bằng cách hợp tác với các nghệ sĩ nổi tiếng đương thời. Enrico Caruso thu âm lần đầu với Gramophone Company ở Milan năm 1902. Giọng bass người Nga Chaliapin trở thành ca sĩ đầu tiên được vinh danh nhờ công nghệ thu âm. Năm 1904, hãng chào mời được soprano vĩ đại Nellie Melba tới ghi âm. Một năm sau đó, Gaisberg cùng đội ngũ kỹ thuật và một lô máy móc đặt chân đến lâu đài xứ Galle của Adelina Patti – coloratura soprano xuất sắc nhất thế giới, sau Melba. Chỉ trong thập kỷ đầu thành lập, Deutsche Grammophon  nhanh chóng trở thành đối tác hàng đầu của hoàng gia Anh và Tây Ban Nha. Từ năm 1907, nhà máy ở Hanover đưa vào vận hành hai trăm máy ghi đĩa và lần đầu tiên sản xuất đĩa hai mặt.

   Các nghệ sĩ danh tiếng khác đã thu âm với Deutsche Grammophon trong thời kỳ đầu gồm có: Alessandro Moreschi (nghệ sĩ castrato cuối cùng), Emma Calvé, Antonio Scotti, Leo Slezak, Francesco Tamagno (diễn viên đầu tiên đóng vai Otello trong vở Opera cùng tên của Verdi), Josef Hofmann, Alfred Grünfeld, Elena Gerhardt…

Thập kỷ thứ hai (1910-1919)

   Bản thu âm có dàn nhạc đầu tiên của Deutsche Grammophon  trong thập kỷ thứ hai được thực hiện vào năm 1910. Đó là chương một piano concerto của Grieg, với  Wilhelm Backhaus, nghệ sĩ mà hai năm trước đã thu âm lần đầu tại hãng với một số đoạn trích từ bộ “Bình quân luật” của Bach. Năm 1911, một nghệ sĩ piano nổi tiếng khác, Ignace Jan Paderewski, đã cho ra mắt đĩa thu âm đầu tay với hãng. Năm 1913, lần đầu tiên Deutsche Grammophon thu âm một tác phẩm lớn cho dàn nhạc: Giao hưởng số 5 của Beethoven, với Berlin Philharmonic  dưới đũa chỉ huy của nhạc trưởng Arthur Nikisch. Cùng thời điểm, có một bản thu đình đám khác: một số trích đoạn trong vở opera Parsifal của Wagner, do Alfred Hertz chỉ huy Berlin Philharmonic. Đầu Thế chiến I, toàn bộ lợi nhuận của hãng bị chính phủ Đức trưng thu cho chiến tranh, với lý do Deutsche Grammophon có dính dáng tới nước Anh. Năm 1916, hai công ty đặt tại Đức và Anh tách ra, công ty ở Đức tiếp tục giữ tên Deutsche Grammophon. Công ty ở Anh là tiền thân của hãng EMI sau này. Deutsche Grammophon không được sử dụng tiếp câu slogan “His Master’s Voice” và không được xuất khẩu các bản thu âm ra nước ngoài. Vì không thể bán bản thu của các tên tuổi lớn như Caruso, Melba và Patti, hãng bắt tay vào xây dựng danh mục mới. Trong các năm sau, hãng tiến hành thu âm cho các nghệ sĩ lớn nhất của Đức và châu Âu.

   Các nghệ sĩ và tổ chức đã hợp tác với Deutsche Grammophon trong thập kỷ này: Wilhelm Backhaus, Mattia Battistini, Michael Bohnen, Julia Culp, Claire Dux, Alfred Hertz, Lotte Lehmann, Richard Mayr, Arthur Nikisch, Ignace Jan Paderewski, Heinrich Schlusnus và Berlin Philharmonic.

Thập kỷ thứ ba (1920-1929)

   Năm 1920, Deutsche Grammophon thu âm lần đầu cho Wilhelm Kempff lúc đó mới 25 tuổi với các tác phẩm của Beethoven, ca sĩ Elisabeth Schumann với aria Non so più trong vở opera Le nozze di Figaro (Đám cưới Figaro). Deutsche Grammophon vạch ra một hướng đi mới, nhờ các nghệ sĩ lớn như soprano Maria Ivogün, nhạc trưởng Hans Pfitzner, Leo Blech và Hermann Abendroth, và một quan điểm mới về hình thức thu âm, đó là đề cao các bản thu đầy đủ. Năm 1921, Frida Leider thu Salutation d’Elisabeth trong vở Tannhäuser của Wagner và Richard Strauss giới thiệu bariton Heinrich Schlusnus, người về sau trở thành một trong những giọng ca vàng của hãng. Năm 1924, Deutsche Grammophon được phép tái sử dụng câu slogan “His Master’s Voice” với logo hình chú chó Nipper cũng như các sản phẩm trước chiến tranh để phát hành tại Đức. Cùng lúc đó logo Polydor hình chiếc đĩa được sáng tạo để in lên các bản thu bán ra nước ngoài. Trong giai đoạn này, các bản thu chủ yếu là của Wagner, với dàn nhạc lâu đời Berlin Staatskapelle và nhạc trưởng Leo Blech hay Berlin Philharmonic cùng nhạc trưởng Max von Schillings. Năm 1925, với hệ thống thu âm mới, hãng đã tiến hành ghi 9 bản giao hưởng của Beethoven, chủ yếu với Oskar Fried và dàn nhạc Berlin Staatskapelle, cùng các bản giao hưởng đồ sộ như Giao hưởng số 9 của Bruckner và Giao hưởng số 2 của Mahler. Năm 1926, nhạc trưởng huyền thoại Wilhelm Furtwängler đã xóa bỏ hoài nghi với đĩa nhạc, ông đồng ý thu âm Giao hưởng số 5 của Beethoven, Overture Freischütz của Weber với Berlin Philharmonic. Năm 1927, “năm vinh danh Beethoven”, hãng mua lại thương hiệu Brunswick của Mỹ. Tới lúc này catalogue của Deutsche Grammophon đã bao gồm: “Adagio số 8” của Bruckner (do Klemperer chỉ huy), Giao hưởng “Oxford” của Haydn (nhạc trưởng Hans Knappertsbusch), Giao hưởng số 39 và “Jupiter” của Mozart (Strauss chỉ huy), Giao hưởng số 6 “Pathétique” của Tchaikovsky (Bruno Walter chỉ huy) và bản Overture “Die Fledermaus” (Erich Kleiber chỉ huy), tất cả đều thu với dàn nhạc Berlin Staatskapelle. Từ năm 1926 đến 1933, dàn nhạc này cũng ghi âm các bản thơ giao hưởng của Strauss dưới sự chỉ huy của chính nhà soạn nhạc. Năm 1928 và 1929, khi hai anh em Emile và Joseph Berliner lần lượt qua đời, Deutsche Grammophon đã đạt được doanh thu gần mười triệu đĩa. Nhà máy ở Hanover có 600 công nhân.

5 hãng thu âm lớn hàng đầu năm 2022

   Các nghệ sĩ và nhóm nhạc đã hợp tác với Deutsche Grammophon trong giai đoạn này: Eugen d’Albert, Rosette Anday, Leo Blech, Karin Branzell, Adolf Busch, Fritz Busch, Busch-Quartett, Gaspar Cassado, Mischa Elman, Carl Flesch, Oskar Fried, Felicie Hüni-Mihacsek, Maria Ivogün, Alfred Jerger, Alexander Kipnis, Erich Kleiber, Raoul von Koczalski, Fritz Kreisler, Georg Kulenkampff, Emmi Leisner, Josef von Manowarda, Lauritz Melchior, Erica Morini, Maria Olszewska, Sigrid Onegin, Koloman von Pataky…

Thập kỷ thứ tư (1930-1939)

   Năm 1930, chi nhánh mới của hãng ở Pháp, hãng thu thanh Polydor SA, đã thu âm bản Boléro của Ravel, do chính nhạc sĩ chỉ huy dàn nhạc Lamoureux. Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đã làm đình trệ việc kinh doanh đĩa. Năm 1932, Deutsche Grammophon hợp nhất với hãng Polyphon và quay về gây dựng lại Hanover. Năm 1937, qua nhiều năm sản xuất tụt dốc, Deutsche Grammophon AG bắt buộc phải giải thể. Sau đó, hãng được tái lập dưới tên Deutsche Grammophon  GmbH, do Deutsche Bank và Telefunken Gesellschaft tài trợ. Dù bị phát xít Đức hạn chế và kiểm soát ngày càng nhiều, những bản thu tuyệt vời vẫn tiếp tục được ghi âm. Tháng 12 năm 1938 đánh dấu sự ra đời đĩa thu âm đầu tiên của Herbert von Karajan: Overture vở Die Zauberflöte (Cây sáo thần) của Mozart với dàn nhạc Berlin Staatskapelle.

   Ngoài những nghệ sĩ quen thuộc trong giai đoạn trước, những nghệ sĩ tên tuổi khác hợp tác với Deutsche Grammophon trong giai đoạn này không thể không kể đến các nhạc trưởng Paul van Kempen, Carl Schuricht và Victor de Sabata; các nghệ sĩ piano Elly Ney, Claudio Arrau; nghệ sĩ violin Georg Kulenkampff; và các giọng ca Erna Berger, Tiana Lemnitz, Walther Ludwig và Julius Patzak…

Thời kỳ thứ năm (1940-1949)

   Sau khi Thế chiến II nổ ra, đối diện với những thiếu thốn vật chất, Deutsche Grammophon một lần nữa rơi vào tình trạng đình đốn trước khi được tập đoàn điện tử Siemens & Halske phục hồi lại vào năm 1941. Các dự án thu âm vẫn diễn ra, bất chấp sự kìm kẹp của phát xít Đức. Đáng chú ý là bản thu hoàn chỉnh của Matthäus-Passion BWV 244 của Bach, do Bruno Kittel chỉ huy năm 1942. Đĩa được chuyên chở về Nhật Bản bằng tàu ngầm, và ở Nhật, Nippon Polydor đã bán được 17.000 bản. Ngày 9 tháng 5 năm 1942, Đức quốc xã ra lệnh cấm Deutsche Grammophon hợp tác với các nghệ sĩ Do Thái và bắt phải tiêu hủy toàn bộ đĩa nhạc do họ thể hiện. Tuy vậy, trong năm 1942 và 1943, một số bản ghi vẫn ra đời và được đón nhận nồng nhiệt: bản thu Karajan với dàn nhạc Berlin Staatskapelle, dàn Concertgebouw, Berlin Philharmonic và dàn RAI Orchestra (Turin). Vào năm 1943 là bản thu tác phẩm thơ giao hưởng Ein Heldenleben (Cuộc đời nghệ sĩ) do Strauss sáng tác và chỉ huy. Cuối chiến tranh, một xưởng sản xuất nhỏ được mở tại Berlin, cùng lúc hãng xây dựng lại nhà máy và các công trình đã bị tàn phá ở Hanover. Năm 1946, Deutsche Grammophon trở thành công ty đầu tiên trên thế giới thực hiện thu âm trên băng từ. Năm sau, Archiv Produktion được thành lập nhằm khuyến khích việc biểu diễn các tác phẩm từ thời Baroque trở về trước – những album đầu tiên tôn vinh các tác phẩm của Bach, do nghệ sĩ organ người Đức Helmut Walcha biểu diễn tại nhà thờ Saint James ở Lübeck. Helmut Walcha tiếp tục hợp tác với hãng trong vòng ba năm sau đó. Năm 1949, quyền sử dụng câu slogan “His Master’s Voice” ở Đức được nhượng lại cho công ty Electrola (hãng EMI ở Đức). Từ đây Deutsche Grammophon bắt đầu đưa vào sử dụng logo màu vàng với bông hoa tulip đội vương miện. Eugen Jochum, Ferenc Fricsay (người trở thành trụ cột của hãng những năm 50) và Dietrich Fischer-Dieskau là những người đầu tiên có đĩa thu âm với logo mới.

   Các nghệ sĩ lớn đã hợp tác với Deutsche Grammophon trong thời kỳ này: Adrian Aeschbacher, Géza Anda, Eduard van Beinum, Helena Braun, Maria Cebotari, Karl Elmendorff, Alfons Fügel, Christel Goltz, Josef Greindl, Hilde Güden, Herbert von Karajan, Clemens Krauss, Max Lorenz, Leopold Ludwig, Walther Ludwig, Maria Müller…

Thập kỷ thứ sáu (1950-1959)

   Năm 1950 chào đón sự ra đời loại đĩa 78 vòng/phút, với các đường rãnh do Deutsche Grammophon phát minh. Năm tiếp theo, hãng sản xuất ra loại đĩa vinyl 33 vòng/phút (còn được gọi là đĩa LP), với thời gian dài hơn. Đĩa có nhiều màu, song phổ biến là màu đen.

  

5 hãng thu âm lớn hàng đầu năm 2022
 Wilhelm Kempff tiến hành ghi âm toàn bộ các bản sonata cho piano của Beethoven năm 1950 và các concerto cho piano năm 1953. Ông cũng thu stereo lại tất cả trong những năm 60. Furtwängler quay lại hợp tác cùng Deutsche Grammophon vào năm 1951. Nhóm Tứ tấu Amadeus và nghệ sĩ violin Wolfgang Schneiderhan thu âm lần đầu với Deutsche Grammophon năm 1951 và 1952. Năm 1959, sau Brahms, Haydn, Mozart và Schubert, nhóm Amadeus chuyển sang thu stereo các tứ tấu của Beethoven. Cùng năm, Karajan từ giã EMI, trở về với Deutsche Grammophon. Suốt ba mươi năm sau, ông thực hiện xấp xỉ 330 đĩa cho Deutsche Grammophon, trong đó có ba đĩa trọn bộ các tác phẩm của Beethoven. Hai nhạc trưởng khác đóng vai trò quan trọng trong việc khẳng định vị thế của Deutsche Grammophon sau chiến tranh là Karl Böhm và Rafael Kubelik. Karl Böhm ghi âm chủ yếu Mozart và Richard Strauss. Rafael Kubelik tập trung vào Dvorák và Smetana, ngoài ra còn có vở opera Lohengrin và giao hưởng của Mahler. Nhạc trưởng Mỹ Lorin Maazel ký kết hợp đồng với Deutsche Grammophon năm 1957.

    Trong vài thập kỷ đầu, Archiv Produktion đi tiên phong trong việc thu âm các tác phẩm âm nhạc thời Trung cổ và Phục Hưng. Nhưng về sau, nhãn hiệu này gắn liền với thời kỳ Baroque, đặc biệt là các tuyệt phẩm cho organ của Bach (do nghệ sĩ organ Walcha biểu diễn) và danh mục các tác phẩm của Đức, Ý dưới sự chỉ huy của Rudolf Baumgartner, Fritz Lehmann, August Wenzinger, Karl Richter. Năm 1956, hãng chuyển trụ sở chính đến Hamburg. Các nhà máy vẫn tiếp tục hoạt động tại Hanover. Năm tiếp theo, Deutsche Grammophon giới thiệu nhãn hiệu mới với khung màu vàng.

   Ngoài các nghệ sĩ kể trên, nhiều nghệ sĩ lớn khác có bản thu tại Deutsche Grammophon trong thời kỳ này phải kể đến: Jörg Demus, Anton Dermota, Annie Fischer, Sviatoslav Richter, Evgeny Mravinsky, Ferenc Fricsay, Dietrich Fischer-Dieskau, Fritz Lehmann, David Oistrakh, Igor Oistrakh, Helmut Roloff, Hans Rosbaud…

Thập kỷ thứ bảy (1960-1969)

   Năm 1960, Deutsche Grammophon ký hợp đồng với nữ nghệ sĩ piano Martha Argerich, cô đồng hành cùng hãng trong suốt những thập kỷ về sau. Năm 1962, Deutsche Grammophon tung ra bản thu âm stereo đầu tiên trọn vẹn chín bản giao hưởng của Beethoven, do Karajan chỉ huy dàn Berlin Philharmonic. Những năm đầu của thập kỷ thứ bảy, hãng thu các vở opera của Verdi tại Nhà hát Opera La Scala (Milan, Ý). Trong số những dự án quan trọng ở giai đoạn này, phải kể đến bản thu toàn bộ các ca khúc lieder của Schubert, do giọng bariton Fischer-Dieskau thể hiện. Ông cũng thu âm một số lượng lớn các lieder của Brahms, Liszt, Schumann và Wolf. Năm 1969, nhân kỷ niệm 200 năm ngày sinh Beethoven (1970), Deutsche Grammophon phát hành bộ Beethoven Edition gồm 76 đĩa. Các bộ khác, với sự chuẩn bị công phu không kém, được ra mắt trong những năm sau: trọn bộ Beethoven (1977 và 1997); Bach (1975 và 1985); Brahms (1983 và 1997); và Berg (1985). Năm 1962, hai hãng điện tử Siemens và Philips hợp nhất cùng đầu tư vào lĩnh vực thu âm, thiết lập nên tập đoàn DGG/PPI (Philips Phonographic Industry). Tuy nhiên, Deutsche Grammophon vẫn giám sát hoạt động thu âm của mình và tự in catalogue.

   Các nghệ sĩ lớn hợp tác cùng Deutsche Grammophon trong giai đoạn này: Claudio Abbado, José van Dam, Martha Argerich, Christoph Eschenbach, Pierre Fournier, Maurice André, Janet Baker, Friedrich Gulda, Thomas Brandis, Charles Munch, Rafael Kubelik, Frank Martin…

Thập kỷ thứ tám (1970-1979)

   Năm 1971, tập đoàn DGG/PPI được cải tổ lại, tạo tiền đề cho công ty thu âm PolyGram hình thành, có trụ sở đặt tại Baarn (Hà Lan) và Hamburg. Để quảng bá cho sinh nhật lần thứ 75 của mình, năm 1973, Deutsche Grammophon cho ra mắt bộ “The Symphony” (Thế giới nhạc giao hưởng), gồm 93 đĩa. Cũng trong thập kỷ này, Deutsche Grammophon tiếp tục mở rộng phạm vi hoạt động trên toàn thế giới, với một series các bản thu đặc biệt bắt đầu từ năm 1971 của nghệ sĩ piano người Ý Arturo Benedetti Michelangeli. Năm 1972, ba chỉ huy dàn nhạc danh tiếng chính thức hợp tác dài hạn với Deutsche Grammophon: Daniel Barenboïm (kiêm nghệ sĩ piano), Seiji Ozawa, và trên hết là Leonard Bernstein, ông đã trở thành nhạc trưởng độc quyền của Deutsche Grammophon vào năm 1981. Bernstein lên danh mục một loạt những bản giao hưởng của các tác giả người Áo và Đức, hầu hết trong số này được thu trực tiếp ở những buổi hòa nhạc với Vienna Philharmonic. Ngoài ra, Bernstein cũng thu âm các sáng tác của chính ông và của các nhạc sĩ người Mỹ. Bản thu âm huyền thoại cho vở ca kịch West Side Story năm 1985 (âm nhạc: Leonard Bernstein, lời: Stephen Sondheim, kịch bản: Arthur Laurents) đã trở thành một trong những album bán chạy nhất trong lịch sử Deutsche Grammophon. Carlos Kleiber ghi âm với hãng lần đầu năm 1973, đó là bản thu vở opera Der Freischütz của Carl Maria von Weber. Ông tiếp tục thu các vở La Traviata, Die Fledermaus, Tristan và các tác phẩm giao hưởng của Beethoven, Brahms và Schubert. Năm 1978, thời kỳ rực rỡ của Deutsche Grammophon hé mở khi nghệ sĩ violin Anne-Sophie Mutter thực hiện bản ghi âm đầu tiên ở tuổi mười bốn, cùng Berlin Philharmonic và Karajan. Gidon Kremer cũng bắt tay cộng tác với các dự án của Deutsche Grammophon. Các bản thu của nhóm Tứ tấu LaSalle đã giành được rất nhiều giải thưởng lớn. Archiv Produktion ký hợp đồng độc quyền với nghệ sĩ violin Reinhard Goebel năm 1977 và với nghệ sĩ Harpsichord là Trevor Pinnock vào năm sau. Năm 1978, nhạc trưởng người Anh John Eliot Gardiner thu âm lần đầu tại Archiv Produktion với dàn  English Baroque Soloists. Năm 1980, PolyGram mua lại Decca Records.

   Các nghệ sĩ lớn cộng tác với Deutsche Grammophon trong thời kỳ này: Salvatore Accardo, Pierre Boulez, Alfred Brendel, Emil Gilels, Sir Yehudi Menuhin, Carlo Maria Giulini, Montserrat Caballé, Plácido Domingo, Nathan Milstein…

Thập kỷ thứ chín (1980-1989)

   Nhạc sĩ kiêm nhạc trưởng người Ý Giuseppe Sinopoli có bản thu âm đầu tiên với Deutsche Grammophon năm 1980. Sau ba năm, ông trở thành người đầu tiên người ký nhiều dự án lâu dài nhất với Deutsche Grammophon, thể hiện qua việc thu trọn bộ Mahler, Brahms và nhiều dự án thu âm opera khác. Năm 1987, James Levine trở thành nghệ sĩ độc quyền của Deutsche Grammophon. Levine chỉ huy toàn bộ các giao hưởng và concerto cho violin của Mozart, với phần độc tấu của Itzhak Perlman và dàn Vienna Philharmonic, cả bộ bốn vở thuộc cycle opera Ring của Wagner cùng nhà hát Opera Metropolitan. Sau khi nghệ sĩ piano Kempff lui về ở ẩn, ba nghệ sĩ piano danh giá nhất của hãng, Martha Argerich, Maurizio Pollini và Krystian Zimerman bắt đầu thu âm các tác phẩm trong danh mục mà Kempff từ chối biểu diễn, chủ yếu là của Chopin, Liszt và các tác phẩm trong thế kỷ XX. Tài năng trẻ Ivo Pogorelich, người được mệnh danh là “Phù thủy của cây đàn piano”, bắt đầu thu âm với hang vào năm 1981. Vài năm sau, hai tên tuổi lớn trong làng piano đến với Deutsche Grammophon: Rudolf Serkin (1981) và Vladimir Horowitz. Trong một thời gian ngắn, từ năm 1985 đến 1989, năm album của Horowitz đã đạt được những thành công vang dội. Trong thập kỷ này, nhiều nghệ sĩ đã trở lại với Deutsche Grammophon: các ca sĩ như Kathleen Battle (1984), Anne Sofie von Otter (1985), Bryn Terfel (1993) và Thomas Quasthoff (1999); nghệ sĩ cello Mischa Maisky (1982); nghệ sĩ piano Maria João Pires (1989), sau cùng là các nhóm tứ tấu Hagen (1985), Emerson (1987). Cuối năm 1984, Siemens bán lại 40% cổ phần PolyGram International cho Philips, và bán nốt 10% năm 1987. Năm 1986, các nhà máy ở Hanover, nơi sản xuất đầu tiên và quan trọng nhất, cũng được Philips mua lại cho PolyGram. Năm 1987, cùng với các thương hiệu anh em là Philips và Decca, Deutsche Grammophon bắt đầu phát hành video cassette và đĩa ghi hình các buổi hòa nhạc và biểu diễn opera, mở ra một kỷ nguyên mới cho việc thu hình các buổi biểu diễn nhạc cổ điển.

   Một số nghệ sĩ đã cộng tác với Deutsche Grammophon trong thập kỷ này: Yo-Yo Ma, Kyung-Wha Chung, Riccardo Chailly, Neeme Järvi, James Morris, Stanislav Bunin…

Thập kỷ thứ mười (1990-1999)

  

5 hãng thu âm lớn hàng đầu năm 2022
Trong hai năm 1989 và 1990, cả thế giới đau đớn vĩnh biệt hai nhạc trưởng vĩ đại Herbert von Karajan và Leonard Bernstein, những người đã cộng tác lâu dài cùng Deutsche Grammophon. Bù đắp lại những mất mát ấy, hai chỉ huy dàn nhạc khác đã nhanh chóng tạo dựng nên guồng làm việc mới tại Deutsche Grammophon: Pierre Boulez và André Previn. Họ tập trung vào các tác phẩm thuộc thế kỷ XX, trong đó có những sáng tác của chính họ. Với nhãn hiệu Archiv Produktion, John Eliot Gardiner chỉ huy các tác phẩm thời Baroque (các vở oratorio của Bach và opera của Monteverdi), các tác phẩm thời Cổ điển (opera của Mozart, giao hưởng của Beethoven) và thời kỳ Lãng mạn. Những hợp đồng mới được ký kết với các nhạc trưởng Myung-Whun Chung (năm 1990), Oliver Knussen và Christian Thielemann (năm 1995). Archiv Produktion ngày càng được đưa lên tầm quốc tế, nhờ việc hợp tác với Paul McCreesh và Gabrieli Consort & Players; Marc Minkowski và nhóm Musiciens du Louvre; cũng phải kể đến Piffaro – nhóm nhạc công chuyên bộ hơi theo phong cách thời Phục Hưng. Năm 1998, công ty Seagram mua lại và hợp nhất PolyGram với Universal, xây dựng nên hãng thu lớn nhất thế giới Universal Music Group. Deutsche Grammophon trở thành ngôi nhà chung lớn nhất và thịnh vượng nhất của âm nhạc cổ điển đương thời. Deutsche Grammophon đã kỷ niệm sinh nhật lần thứ 100 vào năm 1998.

   Những nghệ sĩ đã cộng tác với Deutsche Grammophon trong giai đoạn này: Cecilia Bartoli, Luciano Pavarotti, Evgeny Kissin…

Thập kỷ thứ mười một (2000-2009)

   Mở đầu thiên niên kỷ mới, Universal Music mua lại tập đoàn Vivendi, bổ sung vào ngôi nhà chung những phương tiện thông tin hiện đại nhất. Từ tháng 7 năm 2001, Michael Lang trở thành tổng giám đốc và sau đó lên nắm cương vị chủ tịch Deutsche Grammophon. Tham vọng của ông là “tái sinh”: Deutsche Grammophon tìm kiếm các tài năng và biến họ trở thành nghệ sĩ độc quyền của hãng.

   Các hợp đồng đã được ký kết trong giai đoạn này: Ca sĩ: Anna Netrebko (2002), Rolando Villazón (2005), Measha Brueggergosman, Elīna Garanča và René Pape (2006), Patricia Petibon (2008), Ildebrando D’Arcangelo (2009). Nghệ sĩ piano: Hélène Grimaud (2002), Lang Lang (2003), Rafał Blechacz (2006), Pierre-Laurent Aimard (2007), Yuja Wang và Alice Sara Ott (2008). Nghệ sĩ violin: Hilary Hahn (2002), Giuliano Carmignola (2003), Vadim Repin (2006), Daniel Hope (2007).

   Cũng trong thập kỷ này chúng ta phải chứng kiến sự ra đi của các nhạc trưởng huyền thoại Giulini, Kleiber và Sinopoli. May sao một thế hệ nhạc trưởng mới lại đến với Deutsche Grammophon: Esa-Pekka Salonen và Andrea Marcon (2003), Gustavo Dudamel (2005), Daniel Harding (2006). Sân khấu chào đón Osvaldo Golijov, nhạc sĩ lừng danh đã giới thiệu chuỗi các ca khúc Ayre năm 2005, khởi đầu một series thu âm tại Deutsche Grammophon. Năm 2003, một loạt album được tung ra, thâu tóm toàn bộ nền âm nhạc thế giới, gặt hái nhiều thành công vang dội: nhạc phim Motorcycle Diaries, sự xuất hiện của nghệ sĩ Mercedes Sosa, và nhiều dự án hấp dẫn khác như album nhạc tango Café de los Maestros. Từ năm 2006, hãng thực hiện một series mới mang tên Deutsche Grammophon Concerts (Hòa nhạc của Deutsche Grammophon). Series bao gồm các bản thu trực tiếp, có chất lượng âm thanh cực tốt. Chỉ cần với iTunes và kết nối Internet, thính giả có thể thưởng thức các buổi hòa nhạc trong nhà hát ngay tại nhà. Deutsche Grammophon nhanh chóng trở thành thương hiệu hàng đầu đối với những người yêu nhạc cổ điển muốn mua đĩa qua mạng Internet. Website bán hàng trực tuyến của hãng, Deutsche Grammophon Web Shop, được ra mắt vào năm 2007. Hiện nay, catalogue đầy đủ của hãng có mặt tại hơn 180 nước trên thế giới. Mặt khác, hãng cũng cho khách tải về hơn 1.000 bản thu âm cổ. Bắt đầu từ năm 2008, việc đặt hàng qua mạng được mở rộng nhằm đáp ứng nhu cầu mua CD và DVD của khách hàng châu Âu.

   Phần thưởng cho những thành tựu nổi bật của DG: Năm 2007, Deutsche Grammophon được tạp chí Gramophone bình chọn là “nhãn hiệu của năm”. Tạp chí đã viết: “Deutsche Grammophon thể hiện tất cả những điều tốt đẹp nhất trong âm nhạc cổ điển.

Nguyễn Phương Anh (nhaccodien.info) dịch

5 hãng thu âm lớn hàng đầu năm 2022

  1. Giới thiệu
  2. Các hãng thu âm lớn làm gì
  3. 3 hãng thu âm chính là gì?
    1. Nhóm nhạc phổ quát
    2. Sony Music
    3. Nhóm nhạc Warner
  4. Nó giống như được ký hợp đồng với một hãng thu âm lớn
  5. Nguồn
  6. Người giới thiệu

Mọi người cũng hỏi

  1. 4 hãng thu âm lớn là gì?
  2. Ai là hãng thu âm phong phú nhất?
  3. Làm thế nào để các nghệ sĩ được ký hợp đồng với nhãn?
  4. Ai có thỏa thuận kỷ lục lớn nhất?
  5. Có khó để được ký hợp đồng với một hãng thu âm không?
  6. Điều gì xảy ra khi một hãng thu âm có dấu hiệu cho bạn?

Đại đa số các nhạc sĩ solo đang lên và các ban nhạc mới thành lập sẽ cho bạn biết đó là giấc mơ của họ để thu hút sự chú ý của một hãng thu âm lớn và ký hợp đồng với họ.

Những người chơi quyền lực này đã là những người làm việc trong nhiều thập kỷ nay (một số trong gần một thế kỷ), nhưng trong khi rất nhiều tài năng không dấu sẽ tuyên bố họ mong muốn là một phần của một Trong ngành công nghiệp, những gì họ làm, hoặc thậm chí họ là ai.

Người ta có thể thảo luận về những gì một hãng thu âm lớn làm, nhưng bây giờ, hãy để Lôi bám vào những điều cơ bản. Nếu bạn là một nhạc sĩ đang tìm cách kiếm sống với nghệ thuật của mình và bạn luôn tự đếm mình trong số nhiều người chơi đang tích cực tìm kiếm một hợp đồng thu âm lớn, hãy chắc chắn rằng bạn đã đọc bài viết này trước để bạn biết những gì bạn đang nói Về!

Trên đường đi, chúng tôi sẽ nghe về trải nghiệm được ký kết từ Def Jam A & R Anthony Mundle (YG, 2Chainz, Alessia Cara) và RI Entertainment GM của Nghệ sĩ Quản lý và Phát triển Jerry Beltran (DMX, Mika, Pháp Montana).

Định nghĩa1 của cụm từ Nhãn ghi lại bản ghi rất đơn giản: Một công ty sản xuất và bán hồ sơ, đĩa CD và bản ghi âm. Thêm từ ngữ chính là điều đó là khá tự giải thích. Giải thích chi tiết hơn những gì chính xác một trong những công ty này, chứ đừng nói đến một trong những ví dụ lớn nhất của một người thì không.

Tại các hãng thu âm lớn, cơ bản nhất của nó tìm thấy các ca sĩ và nhạc sĩ, ký hợp đồng với các hợp đồng độc quyền và phát hành âm nhạc mà họ tạo ra để tạo ra cả công ty và các nghệ sĩ. Tất nhiên, làm như vậy thành công liên quan đến rất nhiều người có nhiều công việc khác nhau và các công ty lớn nhất có thể có hàng ngàn nhân viên trên toàn thế giới.

Các hãng thu âm lớn luôn săn lùng tài năng đang lên và trong khi họ thường tìm kiếm chúng trong các hộp đêm nhỏ, ngày nay nhiều người đăng ký mới được phát hiện trên phương tiện truyền thông xã hội hoặc trên các nền tảng như Spotify, Apple Music hoặc YouTube, nơi bất kỳ ai Đi lan truyền với một clip hoặc một bài hát ngay lập tức trở thành một thứ bắt buộc đối với những người chơi lớn nhất trong không gian.

Sau khi một hợp đồng được ký kết, các hãng thu âm lớn có thể giúp ghép các nhạc sĩ với các nhà sản xuất, nhà văn, kỹ sư và máy trộn, tất cả đều kết hợp với nhau để tạo ra các bài hát và album. Sau đó, công ty tạo ra các kế hoạch quảng cáo, phân phối âm nhạc thông qua các nền tảng kỹ thuật số (trang web phát trực tuyến và tải xuống các cửa hàng như iTunes) và sản xuất đĩa CD và vinyl, sau đó gửi chúng ra các cửa hàng.

Các hãng thu âm lớn sau đó có thể giúp quảng bá âm nhạc, thông qua các tuyến công khai truyền thống (tạp chí, blog, TV, quảng cáo), đài phát thanh và tiếp thị (có thể liên quan đến mọi thứ, từ nghệ thuật trang bìa đến tự bán giai điệu). Họ cũng giúp phát triển các nhạc sĩ, cả mới và thành lập, giúp họ tìm ra âm thanh mới và các cửa hàng sáng tạo.

Điều đáng chú ý là trong khi các hãng thu âm lớn sẽ có trong tất cả các hoạt động này cho tất cả các nghệ sĩ của họ, thì chính công ty không luôn luôn làm chúng. Ví dụ, các hãng thu âm chính có sự công khai và phân chia radio, nhưng điều đó không có nghĩa là họ tự làm việc mọi dự án. Đôi khi các nhà quản lý của các nghệ sĩ và ban nhạc sẽ thực hiện một thỏa thuận để tự làm PR/tiếp thị/radio hoặc có thể thuê một công ty bên ngoài khác.

Các hãng thu âm lớn cũng tập trung vào việc xuất bản và cấp phép cho âm nhạc mà họ sở hữu quyền, giúp cung cấp các bài hát cho phim ảnh, TV, quảng cáo, v.v.

Làm thế nào để các nghệ sĩ được ký hợp đồng với nhãn?

Ai có thỏa thuận kỷ lục lớn nhất?

Có khó để được ký hợp đồng với một hãng thu âm không?

Điều gì xảy ra khi một hãng thu âm có dấu hiệu cho bạn?

Khi một nhãn hiệu và A & R có thể thấy rằng có một khán giả theo yêu cầu của một thứ gì đó, đó là một lợi thế rất lớn. Nó không bao giờ rõ ràng hơn hiện nay với những thứ như phương tiện truyền thông xã hội, Instagram, trở lại Tiktok và phát trực tuyến cho đến khi mọi người đang điều chỉnh và tìm kiếm các nghệ sĩ và thực sự có được trải nghiệm về cuộc sống của một nghệ sĩ. Họ tiếp xúc nhiều hơn nhiều so với hai mươi hoặc ba mươi năm trước.

Có nhiều cách khác nhau. Tôi lớn lên vào khoảng một thời gian, vào những năm 90, bạn sẽ đọc về những người được ký hợp đồng, như tôi đã nói, từ thang máy, hoặc L.A. ký tên cho bạn. Đọc tất cả những câu chuyện đó, đó là siêu thú vị đối với tôi.

Ngày nay, nó không như thế. Nhưng tôi tin rằng một số nhãn hiệu vẫn có tâm lý trường học cũ và cách thức giống như, Hey Hey, bạn sẽ ký tên hôm nay. Nhưng hãy để Lừa đặt luật sư, hãy để các nhà quản lý, giám đốc điều hành, CEO trên điện thoại. Hãy để hình dung thỏa thuận này. Tôi tin rằng điều đó vẫn xảy ra bởi vì nó rất cạnh tranh bây giờ.

Bất cứ điều gì chỉ có thể đi lên trong các luồng trong vòng một ngày, trong vòng vài giờ. Mọi nhãn hiệu đều nhìn vào cùng một điều. Rất nhiều nhãn hiệu đang nhìn vào cùng một điều trên một tuyến đường cạnh tranh hoặc nhìn vào những thứ mà họ thực sự có thể mang lại và thực hiện sự phát triển của nghệ sĩ.

Tất nhiên, cách khiến mọi người ký hợp đồng là bạn liên lạc với A & R hoặc A & R tiếp cận hoặc chỉ tình cờ gặp bạn, và sau đó A & R thiết lập một cuộc họp. Vì vậy, ở cấp độ đó, bạn gặp nghệ sĩ, và sau đó bạn báo cáo lại với nhóm của mình và cho họ biết cuộc họp diễn ra tốt đẹp. Đi đến cuộc họp A & R và chơi nó. Nhận mọi người mua vào nó.

Sau đó, tùy thuộc vào cấu trúc của nhãn và vị trí của bạn, bạn đưa một giám đốc điều hành vào chơi hoặc bạn đưa mọi người từ đội vào chơi để đóng trong thỏa thuận. Và sau đó từ đó, bạn nói chuyện với các luật sư, xem các điều khoản là gì, và nó qua lại cho đến khi cuộc đàm phán nơi nghệ sĩ và nhóm đi đến các điều khoản và ký kết.


4 hãng thu âm lớn là gì?

Bài viết này là tất cả về các hãng thu âm Big Three, nhưng đối với những người đã theo dõi hoặc làm việc trong ngành công nghiệp âm nhạc trong ít nhất một thập kỷ, họ nhớ khi có bốn đối thủ trong doanh nghiệp.

Trong nhiều thập kỷ, hãng thu âm lớn thứ tư là EMI (ban đầu là đại diện cho các ngành công nghiệp điện và âm nhạc), một công ty có trụ sở tại U.K. được thành lập vào những năm 30. Thương hiệu này có một số nhãn hiệu phụ có những người đóng băng ấn tượng của riêng họ, bao gồm Parlophone, Virgin Records và Capitol Records. EMI bị đóng cửa vào năm 2012, và hầu hết các tài sản của nó, bao gồm một số thương hiệu đó, đã bị các nhãn khác chộp lấy.

Điều đáng nói là ngoài các chuyên ngành, các hãng thu âm độc lập còn làm khá tốt trong ngành công nghiệp âm nhạc và thị phần của họ đang tăng dần. Tại Hoa Kỳ vào năm 2022, các nhãn hiệu độc lập chịu trách nhiệm cho gần 27% doanh nghiệp của quốc gia đó, theo BPI (ngành ngữ học Anh).

Bây giờ chúng tôi đã thảo luận về những hãng thu âm lớn là gì, họ làm gì và tại sao bạn có thể muốn được ký hợp đồng với một, đó là thời gian chúng tôi đã xem xét các công ty.

Chỉ có một số ít các đối thủ cạnh tranh hàng đầu trong ngành công nghiệp âm nhạc, và họ tuyên bố phần lớn các nhạc sĩ và nhóm nổi tiếng, cũng như vô số nhãn công ty con với nhiều người đăng ký hơn.

Thật dễ dàng để biết ba tên lớn nhất, và sau đó nó khó hiểu hơn một chút từ đó, nhưng một sự hiểu biết cơ bản về các thương hiệu quan trọng nhất là quan trọng, cho dù bạn có muốn trở thành một phần của chúng hay không.

3 hãng thu âm chính là:

  • Nhóm nhạc phổ quát
  • Sony Music
  • Nhóm nhạc Warner

Có khó để được ký hợp đồng với một hãng thu âm không?

Các công cụ cạnh tranh là siêu cạnh tranh bởi vì bạn có những thứ thực sự cao trong các luồng. Giống như, bài hát này có thể được thực hiện một triệu luồng mỗi ngày, và điều đó cạnh tranh. Mọi người sẽ muốn có được điều đó. Những giao dịch ghi âm có thể bắt đầu với một triệu đô la.

Tôi nghĩ rằng một thỏa thuận ghi âm tiêu chuẩn bây giờ là khoảng 500.000 đô la. Đó là sự phát triển của nghệ sĩ. Vì vậy, nó có thể cực kỳ cạnh tranh, đặc biệt là khi tất cả các nhãn khác nhau trên đó. Khi bạn nhận được các nghệ sĩ sớm hơn, con số này là cạnh tranh. Nghệ sĩ có giá trị, tất nhiên là khi bạn ký hợp đồng với một nghệ sĩ, bạn thấy giá trị cực đoan. Bạn thấy sự phát triển, bạn thấy những thứ mà bạn thực sự có thể làm ở phía phát triển nghệ sĩ. Bạn nghĩ rằng lâu dài hơn.

Rất nhiều thời gian bây giờ, các nghệ sĩ muốn sở hữu, và một số nghệ sĩ don thậm chí muốn đến một nhãn hiệu sớm như vậy. Họ có thể muốn trở thành Indie và Chạy chạy các vở kịch của họ, như họ muốn nói, và sau đó đến một nhãn hiệu. Khi các nhãn khác vào cuộc trò chuyện, giá trị tăng lên, cực kỳ.

Vì vậy, tôi sẽ nói nó rất cạnh tranh. Đặc biệt là khi bạn có những nghệ sĩ đang phát triển mà mọi người vô cùng phấn khích, mà bạn có thể nghe thấy bên ngoài nhà của bạn, xem trên các nền tảng, những thứ thuộc loại đó.

Nó không khó. Tôi nghĩ rằng nếu bạn làm tất cả những điều tôi đã nói trước đây, chín trên mười lần, các nhãn sẽ đến với bạn. Tìm hiểu khán giả của bạn là ai và nắm lấy họ, bất kể đó là mười, hai mươi hay ba mươi người. Họ sẽ là những người ủng hộ và ủng hộ lớn nhất của bạn. Khi ai đó hào hứng với một nghệ sĩ, họ nhanh chóng nói với bạn bè của họ. Vì vậy, sự chứng thực ngang hàng hoặc cosign ngang hàng vẫn là phần quan trọng nhất trong việc quảng bá cho một nghệ sĩ.

Nếu tôi có một người bạn lắng nghe cùng một loại nhạc mà tôi làm và anh ấy nói, thì Hey Hey, nghe như vậy và vì vậy, tôi sẽ làm như vậy. Và tôi đã làm như vậy khi tôi mười bốn hoặc mười lăm tuổi. Người bạn thân nhất của tôi vào ngày đầu tiên của lớp bảy đã nói, anh ấy, anh ấy có nghe Wu-Tang không? Và tôi giống như, Yeah Yeah, và chúng tôi trở thành bạn thân vì điều đó. Đó dường như là phổ quát trong cuộc sống của con người.

Lời khuyên của tôi cho một nghệ sĩ sẽ là nắm lấy khán giả của bạn và phục vụ họ. Tôi nghĩ rằng rất nhiều nghệ sĩ cảm thấy khó hiểu họ quan trọng như thế nào đối với người hâm mộ của họ. Hoặc bởi vì nó không phải là một số lượng lớn, họ bỏ qua nó.

Nhưng một lần nữa, nếu có hai mươi người và bạn tiếp tục nuôi sống khán giả đó, để thu hút khán giả đó: đó sẽ là nhóm hỗ trợ của bạn. Các tín đồ và bất cứ điều gì Ariana, gọi người hâm mộ của cô, họ bắt đầu ở đâu đó. Tin tôi đi, điều đó tiếp tục nhân lên và phát triển khi thời gian trôi qua.


Ai là hãng thu âm phong phú nhất?

Trong nhiều năm nay, Universal Music đã trị vì ngành công nghiệp âm nhạc là hãng thu âm lớn nhất. Vào năm 2020, thương hiệu này đã giành được 32% thị phần, điều này rất ấn tượng khi xem chiếc bánh được chia thành bốn phần. Năm đó, tập đoàn đã báo cáo doanh thu 8,82 tỷ đô la.

Để đặt con số thị phần đó vào quan điểm, trong cùng năm đó, Sony Music Entertainment đã tuyên bố 21%, Warner Music Group sở hữu 16%và các nhãn độc lập (được gộp lại với nhau thành một thực thể cho các mục đích này) đã làm 31%, gần như phù hợp với nhau Sức mạnh của Universal.

Năm thành lập: 1934headquarters: Santa Monica, Caannual Doanh thu: 7,7 tỷ USD2 (2019) Thị phần: 54,5% (2019) Nhãn công ty con: Interscope Geffen A & M, Capitol, Island, Cộng hòa, Def Jamartists: 5 giây của mùa hè . 1934
Headquarters: Santa Monica, CA
Annual Revenue: $7.7 billion2 (2019)
Market Share: 54.5% (2019)
Subsidiary Labels: Interscope Geffen A&M, Capitol, Island, Republic, Def Jam
Artists: 5 Seconds of Summer, Blackpink, DaBaby, Dr. Dre, Eminem, Selena Gomez, Imagine Dragons, Lady Gaga, J. Cole, Kendrick Lamar, Maroon 5, U2, The Rolling Stones, Beck, Halsey, Katy Perry, Drake, Post Malone, Ariana Grande, Taylor Swift, etc.

Lớn nhất trong ba nhãn thu âm lớn của một biên độ rất lớn, Universal Music Group cũng tuyên bố danh sách các nhạc sĩ lớn nhất trên khắp nhiều, nhiều nhãn công ty con (có thể đánh số vào ba chữ số). Công ty vô cùng sử dụng hơn 8.000 người và có văn phòng tại hàng chục quốc gia. Thật đáng ngạc nhiên, bản thân nhóm nhạc Universal thuộc sở hữu của các công ty lớn hơn, với Vivendi và Tencent mỗi phần sở hữu một phần của thương hiệu.

Trong những năm gần đây, người khổng lồ đã làm việc chăm chỉ để theo kịp ngành công nghiệp âm nhạc thay đổi, đặt kỹ thuật số và phát trực tuyến lên hàng đầu và tìm kiếm các nguồn doanh thu mới với thư viện nhạc sĩ, bài hát và album rộng lớn của mình. Khi làm như vậy, UMG đã được ca ngợi bởi vô số ấn phẩm là tư duy tiến bộ.

Nhóm nhạc phổ quát

Năm thành lập: 1929headquarters: Thành phố New York, Nyannual Doanh thu: 4,51 tỷ USD (2020) Thị phần: 23,4% (2019) Nhãn công ty con: Columbia, Epic, RCA, Sony Music Nashville, Sony Masterworks, Legacy, The Orchard/Red Musicartists: Adele , AC/DC, Barbra Streisand, Billy Joel, Bob Dylan, Beyonce, Bruce Springsteen, Daft Punk, Travis Scott, Mariah Carey, Outkast, Alicia Keys, Britney Spears, Justin Timberlake, Kesha, Pink, Miley Cyrus Luke Combs 1929
Headquarters: New York City, NY
Annual Revenue: $4.51 billion3 (2020)
Market Share: 23.4% (2019)
Subsidiary Labels: Columbia, Epic, RCA, Sony Music Nashville, Sony Masterworks, Legacy, The Orchard/RED Music
Artists: Adele, AC/DC, Barbra Streisand, Billy Joel, Bob Dylan, Beyonce, Bruce Springsteen, Daft Punk, Travis Scott, Mariah Carey, OutKast, Alicia Keys, Britney Spears, Justin Timberlake, Kesha, Pink, Miley Cyrus, Usher, Tool, Luke Combs

Lớn thứ hai trong ba hãng thu âm lớn, Sony Music cũng sở hữu Sony/ATV, nhà xuất bản âm nhạc lớn nhất trên toàn thế giới, vì vậy công ty không giành chiến thắng ở một khía cạnh khác. Nhãn (và nhiều công ty con của nó, có thể có tới 100 thương hiệu khác nhau) có thể mang lại hàng tỷ đồng, nhưng nó vẫn chỉ là một phần của Đế chế Sony, chạm vào mọi hình thức giải trí.

Sony Music

Năm thành lập: 1958headquarters: Thành phố New York, Nyannual Doanh thu: 4,4 tỷ USD (2020) Thị phần: 12,1% (2019) Nhãn công ty con: Elektra, Warner, Parlophone, Atlantic, Rhino Entertainment, Alternative Distribution Allianceart , Cardi B, Coldplay, Ed Sheeran, Kelly Clarkson, Lizzo, Lil Uzi Vert, Meek Mill, David Guetta, Dua Lipa, Linkin Park, Neil Young, Alanis Morissette, Fleetwood Mac, Frank Sinatra, Green Day, Madonna, Metallica 1958
Headquarters: New York City, NY
Annual Revenue: $4.4 billion4 (2020)
Market Share: 12.1% (2019)
Subsidiary Labels: Elektra, Warner, Parlophone, Atlantic, Rhino Entertainment, Alternative Distribution Alliance
Artists: ABBA, Aretha Franklin, Bruno Mars, Cardi B, Coldplay, Ed Sheeran, Kelly Clarkson, Lizzo, Lil Uzi Vert, Meek Mill, David Guetta, Dua Lipa, Linkin Park, Neil Young, Alanis Morissette, Fleetwood Mac, Frank Sinatra, Green Day, Madonna, Metallica

Người trẻ nhất trong ba hãng thu âm lớn trong nhiều thập kỷ, nó không gây sốc khi Warner Music Group cũng tuyên bố thị phần nhỏ nhất. Chưa đầy hai mươi năm trước, công ty đã khác biệt với các đối thủ cạnh tranh bằng cách công khai trên thị trường chứng khoán và trong một số năm, cổ phiếu đã được giao dịch.

Sau đó, nó đã được mua hoàn toàn bởi Access Industries, nơi đã chọn công khai một lần nữa vào năm 2020. Công ty đã từng là một phần của toàn bộ tập đoàn Warner nhưng hiện đang đứng, đã chuyển sang phương tiện truyền thông trực tuyến vài năm trước, mở rộng dòng doanh thu của nó.

Nhóm nhạc Warner

Này, bạn nghĩ gì về việc thử sự nghiệp sự nghiệp âm nhạc mới của chúng tôi thực sự nhanh chóng? Nó hoàn toàn miễn phí và có thể giúp sự nghiệp của bạn di chuyển nhanh chóng! Hãy thử một lần. Nó hoàn toàn miễn phí và bạn không có gì để mất.

Nhiều nhạc sĩ đang lên mơ ước được ký hợp đồng với các hãng thu âm nổi tiếng, và vì lý do chính đáng! Nó là một mục tiêu dễ hiểu. Ở đây, những gì được ký hợp đồng với một phương tiện chính.

Có lẽ là chuyên gia lớn nhất để ký hợp đồng với một hãng thu âm lớn là thực tế là một số công ty đó chịu trách nhiệm tạo ra hầu hết tất cả các ngôi sao âm nhạc lớn nhất trên thế giới. Trong nhiều thập kỷ, cách thực sự duy nhất để trở thành một tên hộ gia đình bằng cách chơi nhạc là ký vào một nhãn hiệu lớn, và trong khi điều đó không nhất thiết phải hoàn toàn đúng nữa, ý tưởng tương tự vẫn còn.

Kiếm sống như một nghệ sĩ tiếp tục khó khăn, và trở thành loại nhạc sĩ có âm nhạc trên khắp các bảng xếp hạng Billboard, người tham quan thế giới .

Có một số ví dụ về những người đã có thể làm cho nó hoạt động với sự phát triển của các nền tảng truyền thông xã hội và phát trực tuyến, nhưng rất có thể ký hợp đồng với một trong những nhãn hiệu lớn nhất tìm kiếm các nghệ sĩ.

Các hãng thu âm lớn có các kết nối, bí quyết, đội ngũ nhân viên tài năng và có lẽ quan trọng nhất là tiền để biến một tài năng vô danh thành một ngôi sao.

Điều gì xảy ra khi một hãng thu âm có dấu hiệu cho bạn?

Chúng tôi luôn nói, một khi bạn đã ký hợp đồng, đó là khi công việc thực sự xảy ra. Mọi người đặt rất nhiều sự nhấn mạnh vào việc ký kết. Họ thích, thì Oh Oh, tôi đã làm nó, và không, không, bạn đã làm điều đó. Có rất nhiều công việc được ký kết và sau khi thực tế được ký kết. Bạn có thể mong đợi một công ty thu âm sẽ đến và vẫy một cây đũa thần và biến bạn thành ngôi sao nhạc pop tiếp theo. Nó chỉ không xảy ra theo cách đó.

Bạn phải nhớ rằng nghệ sĩ đã làm một cái gì đó đúng để được ký kết. Don lồng đánh giá thấp điều đó; Những gì đã làm việc, đã làm việc đến một điểm và thu hút sự chú ý của một công ty thu âm. Tại thời điểm đó, một nghệ sĩ nên có người hâm mộ.

Nếu một nghệ sĩ có một dự án mà họ muốn làm, A & R là người đầu tiên làm việc với họ và đưa họ vào phòng thu. Nhận cho họ các nhà sản xuất mà họ có thể đã có quyền truy cập trước đây, đưa họ đến các nhà văn mà họ không thể hợp tác trước đây, tạo ra âm nhạc.

Sau đó, một khi điều đó đã hoàn thành, chúng tôi ngồi tập thể với các nghệ sĩ và nhóm nghệ sĩ để tìm ra: Làm thế nào để chúng tôi đi vào thị trường với điều này? Chúng ta phải xác định ai? Chúng ta phải nhắm mục tiêu ai? Có một bài hát nổi bật trong bó, hoặc đây là một dự án kinh nghiệm hơn trong đó có thể nó có mười bài hát và nó không thực sự giữ một bài nào? Khán giả sẽ nắm lấy điều đó? Chúng tôi sống trong một thế hệ rất tốt cho tôi, nơi mọi thứ được điều chỉnh rất nhanh.

Chúng ta có đến DSP với một dự án đầy đủ hay chúng ta làm EP? EPS đã trở nên sống động sau nhiều năm không tồn tại vì họ là những dự án ngắn hơn. Họ nhanh chóng tiêu thụ. Họ nhận được thông điệp thông qua. Nó vẫn là âm nhạc chất lượng tương tự. Đó là một cách tốt để giới thiệu nghệ sĩ với một cơ sở fan hâm mộ, người thường được điều chỉnh ở đó.

Có nhiều câu hỏi xuất hiện khi một nghệ sĩ được ký tên vào một nhãn hiệu. Có lẽ họ có một bài hát mà cộng hưởng vào lúc này, và kết quả là, nó đã ký hợp đồng với nhãn hiệu này. Có lẽ bạn lấy bài hát đó và quảng bá nó đến một điểm mà nó nhìn thấy nhiều mắt hơn và nhận được nhiều tai hơn so với nghệ sĩ đã đạt được đến thời điểm đó.

Có lẽ bài hát đã làm việc trên đài phát thanh. Đài phát thanh vẫn là một thành phần rất lớn trong việc giới thiệu người hâm mộ về âm nhạc. Có rất nhiều người dành nhiều thời gian mỗi ngày trong xe. Vì vậy, nghe một bài hát trên radio vẫn là một cách để giới thiệu mọi người với họ.

Một số nghệ sĩ don thậm chí còn nhìn thấy đài phát thanh. Đó là lý do tại sao nó rất quan trọng để xem ai là người đang tiêu thụ âm nhạc của bạn. Ai là người hâm mộ đang nắm lấy nghệ sĩ này? Một người hâm mộ, người mà nghe Ariana Grande trên đài phát thanh có thể không phải là người hâm mộ mà Lôi nghe Snoh ​​Aalegra trên DSPS. Một người hâm mộ, người mà nghe Tyler, người sáng tạo có thể không phải là một người hâm mộ mà mà nghe Drake.

Bạn phải biết bạn đang đối phó với ai. Các nghệ sĩ như The Weeknd đã đi từ tính cách rất bí ẩn, bí ẩn với một giáo phái để có một quảng cáo lớn hơn và hiện đang chơi Super Bowl. Đó là một vấn đề tìm ra những điều đó một khi một nghệ sĩ được ký hợp đồng với một nhãn hiệu.

Chà, tôi sẽ luôn luôn quay trở lại con đường truyền thống. A & R là viết tắt của các nghệ sĩ và tiết mục. Trở lại thời của Motown, Supreme, The Temptations, tất cả những người này, họ có một ngôi nhà: [Người sáng lập Motown Berry] Gordy đã xây dựng một ngôi nhà để phát triển nghệ sĩ. Anh ấy sẽ dạy họ cách đi bộ, cách ăn, cách thực hiện và cách nhìn. Đó là giai đoạn phát triển nghệ sĩ: đưa ai đó và dần dần biến họ thành một ngôi sao. Vì vậy, bước tiếp theo sau khi ai đó được ký hợp đồng được cho là phát triển nghệ sĩ.

Khi bạn lấy một nghệ sĩ mà đã phát trực tuyến, bạn sẽ hy vọng rằng nghệ sĩ đã có một dự án. Họ nên như thế, thì tôi sẽ bỏ X, Y và Z, và sẵn sàng có những cuộc nói chuyện đó với quản lý và biết kế hoạch trò chơi của họ. Bởi vì, đặc biệt là về phía hip hop, các rapper liên tục xuất hiện với âm nhạc, liên tục xuất hiện với nội dung. Vì vậy, bạn đã nghĩ rất khác nhau khi bạn ký chúng. Họ đã có âm nhạc mà họ muốn phát hành.

Nhãn có thể đã ký hợp đồng với một nghệ sĩ vì một hoặc một cái gì đó. Rất nhiều thứ đang đến trong những ngày này. Một duy nhất đang phát điên và các nhãn hiệu đang theo đuổi nó.

Tiktok là một trong những nền tảng có thể khiến mọi thứ thực sự di chuyển. Thanh thiếu niên, họ đang lắng nghe những điều này, và người lớn cũng đang nhận được những điều này. Người lớn tuổi đang tham gia vào nó. Nó vô cùng thú vị. Ngành công nghiệp âm nhạc đang thay đổi và giống như, Hey Hey, chúng ta cũng cần nhìn vào đó. Vì vậy, có nhiều cách khác nhau để các nghệ sĩ đến.

Nhưng nó nên bắt đầu với giai đoạn phát triển nghệ sĩ. Bạn đã ký hợp đồng với nghệ sĩ đó vì đĩa đơn đó, nhưng bạn đã làm việc với nghệ sĩ đó về nghề của họ, âm nhạc của họ, tìm kiếm nhà sản xuất, nhà văn, giọng ca chính, bất cứ điều gì bạn nghĩ là nghệ sĩ cần. Bạn làm việc trên một dự án và thêm các yếu tố khác nhau để thực sự nâng cao nó, và sau đó lập kế hoạch từ đó.

Làm việc với đội ngũ tiếp thị; làm việc với nhóm kỹ thuật số; Làm việc với một đội ngũ thương mại. Nghĩ về, những gì mà tầm nhìn? Những gì thông điệp của nghệ sĩ? Làm thế nào để chúng ta lăn nó ra và đưa nó vào thế giới? Có một kế hoạch trước và một kế hoạch sau là rất quan trọng. Rất nhiều lần, mọi người phát hành mọi thứ mà không có kế hoạch sau đó.

Có nhiều loại nghệ sĩ khác nhau đến. Họ không phải là tất cả trong sự phát triển. Phần lớn trong số họ đã có âm nhạc, đã tự di chuyển. Vì vậy, họ đã đến với một nhãn hiệu nói rằng, tôi muốn thực hiện dự án này vào tháng tới, và chúng tôi cần phải xóa nó và xử lý, lấy nhà sản xuất và tất cả những thứ đó. Trộn, làm chủ, nghệ sĩ phụ, tất cả những thứ đó.

Chúng tôi cần một kế hoạch tiếp thị, kế hoạch kỹ thuật số, kế hoạch thương mại, chúng tôi cần quyết định triển khai nội dung trông như thế nào. Chúng ta cần tự hỏi mình, những cơ hội khác mà chúng ta có cho nghệ sĩ? Và tìm ra tiếp thị cơ sở, bởi vì, đối với một nghệ sĩ đường phố, bạn phải phục vụ cho khán giả đó.

Nếu nghệ sĩ thương mại hơn, đài phát thanh trông như thế nào? Những gì kế hoạch radio? Những gì ngày tác động? Vì vậy, có rất nhiều. Bạn phải nhìn nó từ mọi góc độ khác nhau: họ là loại nghệ sĩ nào, và họ đang ở đâu trong sự nghiệp của họ? Bởi vì A & R có thể đóng nhiều vai trò khác nhau.


Ai có thỏa thuận kỷ lục lớn nhất?

Chỉ có một số ví dụ về các nhạc sĩ hoặc ban nhạc ký hợp đồng với các công ty thu âm với giá từ 100 triệu đô la trở lên, và một số ít đã được chọn thậm chí còn cao hơn.

Thỏa thuận kỷ lục lớn nhất từng được ký kết là với bất động sản của Michael Jackson, vì chính ca sĩ đã qua đời năm trước. Gia đình anh bỏ lại phía sau đã chấp nhận hợp đồng 250 triệu đô la để đổi lấy bản quyền đối với âm nhạc của anh, bao gồm cả tài liệu chưa phát hành và rất nhiều bản hit của anh.

U2 vẫn được báo cáo giữ kỷ lục cho hợp đồng thu âm lớn thứ hai từ trước đến nay, vì họ đã từng ký hợp đồng với sáu album nữa với Island Records với giá 200 triệu đô la. Số tiền đó đã được tiết lộ cho đến sau này, và một số người vẫn cho rằng nó có thể không cao đến thế.

Các nghệ sĩ khác đã ký các giao dịch với giá 100 triệu đô la trở lên bao gồm Whitney Houston, Lil Wayne, Jay-Z, Bruce Springsteen, Adele và một vài người khác.

5 hãng thu âm lớn hàng đầu năm 2022

Jerry Beltran

Jerry Beltran là một giám đốc âm nhạc với hơn 12 năm kinh nghiệm, làm việc trong các vai trò khác nhau trong kinh doanh âm nhạc với tư cách là A & R, người quản lý, nhà phát triển nghệ sĩ và quan hệ nghệ sĩ giữa các công ty như Def Jam, Tidal, SRC Records và R I Entertainment.

Anh ấy đã làm việc với những người như DMX, French Montana, Mika, Akon, Gustavo Santolalla, Charles Bradley, 070Shake, Sam Fischer, và một số người khác, trên nhiều thể loại trong âm nhạc bao gồm hip hop, rap, R & B, pop, rock, linh hồn , Reggaeton, bẫy Latin và khiêu vũ.

Jerry luôn là một nghệ sĩ điều hành đầu tiên, và nuôi dưỡng sự sáng tạo, sử dụng kinh nghiệm của mình trong kinh doanh âm nhạc để giúp hướng dẫn các nghệ sĩ trẻ. Năm 2020, ông đã ra mắt ngôi nhà sáng tạo 212Jerry của riêng mình, để cung cấp hướng đi và phát triển cho các nghệ sĩ cần A & R, phát triển, tiếp thị kỹ thuật số và các tài nguyên khác.

Sinh ra ở khu nhà bếp địa ngục của thành phố New York, lớn lên Jerry được bao quanh bởi ánh sáng lớn của Broadway, âm thanh của những con đường sầm uất và âm nhạc đến từ các âm thanh nổi. Tốt nghiệp chương trình kinh doanh âm nhạc Five Towns College năm 2003, Jerry đã tiếp tục làm việc với nhiều giám đốc điều hành âm nhạc cấp cao bao gồm Rich Isaacson, Steve Rifkind, Monte Lipman, Bruce Carbone và Paul Rosenberg. Jerry tiếp tục thực hiện niềm đam mê của mình trong việc theo đuổi việc phát triển và phá vỡ các nghệ sĩ, với hy vọng thực hiện ước mơ của họ.

5 hãng thu âm lớn hàng đầu năm 2022

Anthony Mundle

Anthony Mundle làm việc trong bộ phận của Def Jam Recordings, bộ phận A & R, đó là một giấc mơ của anh ấy từ khi còn là một đứa trẻ. Ông đã phối hợp, vận hành và A & R trong các dự án cho các nghệ sĩ như YG, 2chainz, Alessia Cara, Nasty C, Fabolous, 10K.Caash, Gun40, Saint Bodhi, Dave East, Jadakiss, Beau Young Prince, v.v.

Anthony đến từ Nữ hoàng, New York, và đã thấm nhuần bản chất của một sáng tạo NYC chăm chỉ. Anh theo học tại Đại học Florida A & M để học đại học và lấy bằng thạc sĩ từ City College of New York. Với bằng cấp về quan hệ công chúng, tiếp thị và thương hiệu tích hợp truyền thông, Anthony biết rằng anh muốn biến giấc mơ âm nhạc của mình thành hiện thực bằng cách quay trở lại NYC. Anh đã làm việc cho Sony Music Group, Viacom, CBS Radio và Umg, trước đây anh đã làm việc cho EVP của Universal Music Group trong hai năm trước khi đảm nhận vai trò hiện tại của mình. Là một chàng trai trẻ của nhiều chiếc mũ, Anthony đã đạt được thành công khi ở PR, tiếp thị, phát triển nghệ sĩ và ngay cả khi là người quản lý của ba hành vi.

  1. 1Collins Từ điển tiếng Anh. "Hãng thu âm". Từ điển.com. Xuất bản: 2012. Truy cập vào ngày: 23 tháng 2 năm 2021
  2. 2rys, Dan. "Doanh thu nhóm nhạc Universal vượt qua 7,7 tỷ đô la trong năm 2019, IPO được lên kế hoạch vào năm 2023". Bảng quảng cáo. Xuất bản: 13 tháng 2 năm 2020. Truy cập vào ngày: 23 tháng 2 năm 2021
  3. 3ingham, Tim. "Doanh thu âm nhạc Sony tăng vọt trên 4,5 tỷ đô la vào năm 2020, sau quý cuối cùng của năm". Kinh doanh âm nhạc trên toàn thế giới. Xuất bản: 3 tháng 2 năm 2021. Truy cập vào ngày: 23 tháng 2 năm 2021
  4. Kinh doanh 4Music trên toàn thế giới. "Warner Music Group dự kiến ​​doanh thu hàng năm lên tới 4,4 tỷ đô la trong năm 2014, với việc phát trực tuyến hơn 260 triệu đô la Yoy". Ingham, Tim. Xuất bản: 19 tháng 10 năm 2020. Truy cập vào ngày: 23 tháng 2 năm 2021

Nhãn bản ghi số 1 là gì?

Tập đoàn âm nhạc Universal, Sony Music Entertainment và Warner Music Group là những hãng thu âm lớn nhất thế giới. Bao gồm nhiều nhãn hiệu nhỏ hơn, ba tập đoàn kiểm soát khoảng 69% thị phần., Sony Music Entertainment, and Warner Music Group are by far the largest record labels in the world. Consisting of many smaller labels, the three corporations control approximately 69% of the market share.

4 hãng thu âm lớn nhất là gì?

Hiện tại, bốn hãng thu âm lớn (được gọi là Big Four) là EMI, Sony Music Entertainment, Universal Music Group và Warner Music Group. Các nhãn thu âm độc lập là các nhãn nhỏ hơn hoạt động mà không cần hỗ trợ tài chính từ Big Four và thường tạo ra âm nhạc ít khả năng thương mại hơn.EMI, Sony Music Entertainment, Universal Music Group, and Warner Music Group. Indie record labels are smaller labels that operate without financial assistance from the Big Four and typically produce less commercially viable music.

3 công ty âm nhạc lớn là gì?

3 hãng thu âm chính là: Nhóm nhạc Universal.Sony Music.Nhóm nhạc Warner.Universal Music Group. Sony Music. Warner Music Group.

Ai là nhãn nhạc hàng đầu?

Hiện tại, chỉ có ba hãng thu âm lớn ở Hoa Kỳ.Con số này rất thấp do sự sáp nhập khác nhau của các công ty trong những năm qua.Ba công ty lớn là Universal Music Group, Warner Music Group và Sony Music Entertainment.Ba điều khiển hầu hết thị trường âm nhạc ở Hoa Kỳ ngay bây giờ.