109 tệ bằng bao nhiêu tiền Việt

Và cũng do tâm lý thực tế sợ đổi ra tiền đồng Việt Nam bị mất giá, nên trong giao dịch vay mượn lẫn nhau, số bà con này thường dùng ngoại tệ mặt để giao dịch. Những giao dịch như vậy nếu “trót lọt”, hai bên vay mượn giữ chữ tín với nhau thì êm, nhưng nếu xảy ra tranh chấp thì rủi ro sẽ phát sinh hậu quả “mất tiền” (đôi khi khá lớn) đối với bên cho vay.

Điển hình rủi ro pháp lý về sử dụng ngoại tệ mặt cho vay qua vụ kiện “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” mà bản thân người viết đã tham gia với tư cách luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn là thân chủ của mình. Diễn tiến của vụ tranh chấp dân sự này như sau: Nguyên từ giữa tháng 8 năm 1997, bà S.Diễm, Việt kiều Mỹ, vì muốn giúp đỡ hỗ trợ đứa em của người bạn nối khố tên H.N qua năn nỉ thuyết phục của người bạn này, nên đã cho vay 12.000USD với lãi suất 200USD/tháng và 25 lượng vàng SJC 9999 với lãi suất qui ra tiền đồng là 2%/tháng bằng cam kết vay nợ giấy tay do bên vay viết. Do bên vay, chị H.N quá lình xình, trục trặc trong việc trả lãi và trong suốt thời gian vay chỉ trả được một phần lãi cho phần vốn vay ngoại tệ 12.000USD. Còn phần vốn vay vàng thì hầu như không được trả đồng lãi nào. Và đến ngày 10/6/2008, thì bên vay, chị H.N “tịt ngòi” luôn và bị bà S.Diễm sai cháu ruột mình đi đòi nhiều lần không được gì vì bên vay tránh mặt và khi hiếm hoi gặp được, bên vay còn ra mặt “tráo trở” nói ngang là sắp tới khi có tiền sẽ chi trả vốn từ từ, chứ không trả lãi nữa vì “sạch túi rồi”, mặc dù chị ta mới bán được căn nhà đến 600 lượng vàng SJC 9999.

Do không đòi được cả vốn và lãi, lại bị thách đố, nên chủ nợ (là S.Diễm) bị sốc, bực tức “cực chẳng đã” phải vác đơn ra kiện ờ tòa, mặc dù bản tính bà S.Diễm chẳng bao giờ muốn “đáo tụng đình”. Như vậy, là đầu tháng 8/2007 vụ kiện “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” đã được Tòa án Nhân dân TP. K thụ lý.

Và qua kết quả xét xử sơ thẩm, đúng như phân tích dự báo của tôi với tư cách luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên  đơn, rủi ro pháp lý đã ập lên vai của “người chủ nợ mất cảnh giác”. Mặc dù, căn cứ vững chắc trên các Điều 471 về “Hợp đồng vay tài sản”, Điều 474 về “nghĩa vụ trả nợ của bên vay”, Điều 476 khoản 1 về lãi suất với quy định cụ thể; “Lãi suất vay cho các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng” của Bộ Luật Dân sự năm 2005 (kể cả vận dụng các Điều 467, 471 và 473 Bộ Luật Dân sự nước CHXHCN Việt Nam năm 1995, có hiệu lực từ ngày 1/7/1996 cũng có các quy định tương tự, vì quan hệ dân sự phát sinh từ thời điểm vào tháng 8/1997). Tôi đã bảo vệ thành công yêu cầu của thân chủ mình với yêu cầu bị đơn hoàn trả đủ số vốn đã vay gồm 12.000USD và 25 lượng vàng SJC 9999 với thông cảm cho bị đơn “con nợ” xóa không tính số nợ tiền lãi còn thiếu rất lớn. Nhưng như đã nói, đúng như dự báo, mà tôi với tư cách luật sư đã phân tích cho thân chủ mình thấy trước phần có thể phải bị mất về số lãi cho vay ngoại tệ USD mà thân chủ mình đã được con nợ trả lai rai (tuy không đủ) qua 10 năm cho vay và bị chiếm dụng cả vốn và lãi kéo dài,

Vì bản án dân sự sơ thẩm đã nhận xét: “Giấy biên nhận vay số tiền 12.000USD giữa bà S.Diễm và bà H.N là giao dịch ngoại hối trái với quy định tại khoản 2 Điều 1 và khoản 5 Điều 39 Nghị định số 63/1998/NĐ-CP ngày 17/8/1998 của Chính phủ và thông tư số 01/1999/TT-NHNN7 ngày 16/4/1999 của ngân hàng Nhà nước, thì ngoại hối chỉ được lưu hành qua hệ thống ngân hàng Nhà nước, tổ chức và cá nhân được phép hoạt động ngoại hối. Do đó, bà H.N có trách nhiệm hoàn trả cho bà S.Diễm số tiền 12.000USD quy đổi ra tiền Việt nam vào thời điểm xét xử sơ thẩm là 193.470.000 đồng VN (theo Báo SGGP ngày 12/9/2008, với tỉ giá 1 USD là 16.490 đồng VN). Còn  tiền lãi mà bà S.Diễm đã nhận được của bà H.N tổng cộng là 218.235.000 đồng VN là tiền thu lợi từ giao dịch trái với quy định của pháp luật. Do đó, buộc bà S.Diễm nộp lãi 218.235.000 đồng để sung công quỹ Nhà nước”.

Và cuối cùng, tòa đã ra phán quyết tuyên xử: Buộc bà H.N có trách nhiệm trả cho bà SDiễm số tiền 193.470.000 đồng (quy đổi từ 12.000USD) và 25 lượng vàng SJC 9999, ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật. Và buộc bà S.Diễm phải nộp lại số tiền 218.235.000đồng là tiền lãi thu lợi từ giao dịch trái với quy định của pháp luật, để sung công quỹ Nhà nước.

Như vậy, rõ ràng thắng lợi của thân chủ tôi (bà S.Diễm) là không trọn vẹn, có thắng (lấy lại đủ số vốn đã cho vay qua phán quyết của bản án) và cũng có thua (là phải nộp vào ngân sách Nhà nước toàn bộ số lãi đã thụ hưởng, tuy con nợ chỉ mới trả chưa tới một nửa số lãi theo cam kết). Coi như về mặt thực chất, bà S.Diễm cho vay vốn ngoại tệ hầu có “đồng ra đồng vào” tiền lãi để tiêu xài, nhưng do sơ hở về mặt luật pháp, vô hình chung giống như cho mượn chùa không có lãi được đồng nào suốt 11 năm (từ năm 1997 đến năm 2008). Và vụ tranh chấp dân sự cũng khá đau đầu kéo dài đến 14 tháng vẫn chưa xong, chưa dứt điểm vì giao đoạn thi hành án dân sự, kinh nghiệm ở Việt Nam, cũng không dễ dàng gì.

Qua vụ kiện dân sự “tranh chấp hợp đồng vay tài sản” này, cho thấy cần cảnh giác cao đối với bà con quá dễ dàng, do ít am hiểu các quy định pháp luật, trong quan hệ giao dịch, cho vay mượn ngoại tệ mặt dễ gặp rủi ro thiệt hại khá lớn như trên.